Thứ Hai, 25 tháng 8, 2014

Hot deal - Lợi ích của khách hàng khi sử dụng deal ?

Mua ban rao vat
Hot deal ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật đặc biệt là lĩnh vực công nghệ thông tin, các dịch vụ cung cấp cũng như tiện ích ngày càng phong phú, đa dạng, không những đáp ứng nhu cầu cấp thiết mà còn nâng cao mức sống của con người một cách đáng kể. Trong đó mô hình kinh doanh deal tại Việt Nam đang trở nên khá phổ biến, mang đến cho khách hàng hàng loạt sản phẩm dịch vụ với giá cả phải chăng, phù hợp với mức sống của người tiêu dùng trong bối cảnh nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn.

1.      Deal là gì?
Deal là kinh doanh theo hình thức groupon. Các mặt hàng trên deal được khuyến mãi từ 30% đến 90% trong một thời gian nhất định, với điều kiện số khách hàng cần phải đạt tới một lượng nhất định.
Tuy nhiên, hiện nay đã xuất hiện những deal với mức chiết khấu lớn thường trên 50% mà không cần phải thỏa mãn điều kiện về số lượng khách hàng tối thiểu. Trong mô hình kinh doanh này, groupon đưa ra những phiếu voucher giảm giá từ 30 – 90% về các mặt hàng tại mỗi khu vực thị trường khác nhau.
Thực chất deal là mô hình kết hợp giữa thương mại điện tử và quảng cáo.  Mục đích cuối cùng của các trang web Groupon không đơn thuần là bán các phiếu khuyến mãi, mà quan trọng hơn là để quảng bá thương hiệu, quảng bá sản phẩm cho nhà cung cấp và quảng bá thương hiệu cho chính mình.
Các nhà cung cấp đồng ý đưa ra các siêu giảm giá tới với mục đích chủ yếu là quảng cáo, vì thực tế nhà cung cấp không thu nhiều lợi nhuận từ các deal này. Nhưng nếu coi như đây là một phương thức quảng cáo, và các chi phí thông qua giảm giá là các chi phí dành cho quảng cáo thì cực kỳ có lợi và hiệu quả. Vì nếu nhà cung cấp nếu sử dụng các phương thức quảng cáo khác sẽ phải trả chi phí lớn hơn mà hiệu quả thì không được đảm bảo vì các phương thức quảng cáo khác không đảm bảo lượng khách hàng sẽ tìm đến với nhà cung cấp trong và sau thời gian quảng cáo. Còn nếu thông qua hình thức deal - mua theo nhóm sẽ tạo cơ hội để khách hàng tới trải nghiệm sản phẩm - dịch vụ của chính mình.
Gần đây các trang web kinh doanh deal còn triển khai các ứng dụng trên Wap, Android, Blackberry, iPhone, Windows Phone 7 cho phép người sử dụng có thể thực hiện mua các deal ngay trên smartphone của họ, biến những chiếc điện thoại này trở thành những phiếu giảm giá cho người sử dụng.

hot deal


2.      Lợi ích của khách hàng khi sử dụng deal ?
Khi mua các dịch vụ và sản phẩm thông qua deal, khách hàng có những lợi ích như sau:
-         Được mua hàng với giá rẻ hơn so với giá bán lẻ tại các điểm bán hàng, khoảng từ 30 – 90%.
-         Việc mua hàng qua deal và thanh toán online đem lại cho khách hàng rất nhiều tiện lợi, không mất nhiều thời gian đi lại để mua sản phẩm hay dịch vụ.
-         Với xu hướng địa phương hóa mạnh mẽ, các khách hàng tại nhiều vùng miền có thể tiếp cận việc mua sản phẩm, dịch vụ ngay tại địa phương mình một cách dễ dàng.

3.      Lợi ích của nhà cung cấp sản phẩm?
Khi hợp tác với các website kinh doanh deal, nhà cung cấp dịch vụ, sản phẩm sẽ thu được những lợi ích to lớn như sau:
-         Có thể quảng cáo sản phẩm, quảng bá thương hiệu với chi phí rẻ hơn nhiều so với các phương thức quảng cáo truyền thống trước đó.
-         Tiếp cận và thu hút một lượng lớn khách hàng mới với chi phí thấp.
-         Cơ hội bán được một lượng lớn hàng hóa,dịch vụ; đặc biệt ý nghĩa trong mùa thấp điểm.
-         Thu thập thông tin, khảo sát thị trường, đánh giá chất lượng sản phẩm từ lượng khách hàng tiềm năng một cách dễ dàng với chi phí thấp.

4.      Lợi ích của website kinh doanh deal?
-         Hưởng chiết khấu của nhà cung cấp trên mỗi phiếu voucher bán được.
-         Có doanh thu từ quảng cáo, liên kết web.

5.      Những thuận lợi từ phía khách hàng khi áp dụng mô hình kinh doanh deal tại Việt Nam?
-         Người tiêu dùng VN rất quan tâm tới giá: Mức sống của người Việt Nam nói chung vẫn thấp so với khu vực cũng như thế giới. Người dân sẽ có xu hướng chọn lựa những mặt hàng giá rẻ mà vẫn đáp ứng được nhu cầu của mình. Các deal có thể dành cho các khách hàng những mức khuyến mãi lớn, các voucher được giảm giá có khi lên đến 90%. Đây là một yếu tố có sức thu hút đối với người tiêu dùng.
-         Tâm lý thích khuyến mãi của người Việt Nam: Đây là một yếu tố mà các nhà hoạch định chiến lược rất hay dùng để khuyến khích mua sắm, tăng lượng cầu. Deal cũng đã đánh trúng vào tâm lý này khi thường xuyên đưa ra các hình thức khuyến mãi đa dạng, với mục đích là người mua có thể mua được giá cực rẻ, còn người sản xuất lại quảng bá được thương hiệu của mình.
-          Tâm lý làm theo đám đông: Người Việt Nam có một tâm lý rất đặc trưng là tâm lý đám đông. Người tiêu dùng Việt Nam sẽ cảm thấy yên tâm mua hàng hơn khi có nhiều người cùng mua một lúc. Khi có một lượng khách hàng đông cùng mua với mình thì sự yên tâm cũng sẽ tăng lên đáng kể.
-         Mua bán, giải trí là một trong những hoạt động chủ chốt của người Việt Nam từ offline cho tới online: Người Việt Nam, đặc biệt là giới trẻ hiện nay rất quan tâm đến các hoạt động mua bán và giải trí. Với sự bùng nổ của mạng internet hiện nay tại Việt Nam thì các hình thức mua sắm, giải trí trên mạng lại càng có điều kiện phát triển, và tiềm năng vẫn rất lớn.

6.      Những thuận lợi từ phía doanh nghiệp khi áp dụng mô hình kinh doanh deal tại Việt Nam?

-         Các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu coi trọng vấn đề quảng bá thương hiệu, và deal là một giải pháp đơn giản mà hiêu quả.
-         Các doanh nghiệp rất kỳ vọng vào trang web kinh doanh hot deal tạo ra khách hàng trung thành tiềm năng cho doanh nghiệp. Vì với mức giá thấp hấp dẫn, khách hàng sẽ có cơ hội mua được những món hàng mà họ mong muốn nhưng chưa có cơ hội. Qua đó mang lại một loạt các khách hàng mới cho doanh nghiệp, và kì vọng sẽ kết nối được trong đó những vị khách hàng trung thành với doanh nghiệp.
-         Kinh doanh deal đem đến giải pháp hiệu quả đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ có ngân sách cho quảng cáo và marketing eo hẹp. Một ví dụ cụ thể là nếu một website Groupon có 100.000 thành viên thì thông tin của doanh nghiệp sẽ được gửi miễn phí hàng ngày tới tất cả lượng thành viên này. Tính phí quảng cáo khoảng 100 đồng một người thì mỗi ngày doanh nghiệp đã tiết kiệm được 10 triệu đồng.
hot deal


7.      Những thuận lợi từ sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử tại Việt Nam.
Hiện nay, các doanh nghiệp áp dụng mô hình Groupon tại Việt Nam vẫn chưa khai thác hết thị trường trong nước. Thị trường dồi dào này được hình thành từ lượng lớn người dùng Internet tại Việt Nam. Thống kê cho thấy trong số 20 nước có số lượng người sử dụng internet cao nhất thế giới thì Việt Nam là nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất với tốc độ đáng kinh ngạc là 12.034,5%. Điều đó tạo nền tảng rất thuận lợi cho thương mại điện tử phát triển, và thực sự thương mại điện tử cũng đang rất phát triển tại Việt Nam. Thương mại điện tử phát triển tạo động lực cho mô hình Groupon mở rộng, ngược lại Groupon mở rộng lại góp phần thúc đẩy thương mại điện tử phát triển tại Việt Nam. Đó là mối quan hệ tương hỗ hai chiều, phụ thuộc lẫn nhau.


Như vậy, Cùng với http:/chonay.vn, mô hình kinh doanh hot deal hay con gọi là Groupon đang dần trở thành một khuôn mẫu thành công mới trong thế giới công nghệ số. Với mô hình kinh doanh hết sức đơn giản nhưng lại vô cùng độc đáo, Deal đã đem lại cho rất hàng triệu khách hàng lựa chọn mua sắm mới vừa tiện lợi, lại vừa kinh tế. Không chỉ là kênh bán hàng hiệu quả, Groupon còn hưa hẹn sẽ trở thành kênh quảng cáo chủ yếu cho các doanh nghiệp trong tương lai. Song sự thành công của mô hình kinh doanh này còn bị ảnh hưởng nhiều bởi các yếu tố khác như thói quen tiêu dung của khách hàng và sự hiểu biết của nhà cung cấp. Người tiêu dùng nên có cái nhìn tích cực hơn về hình thức mua sắm rất tiện lợi này. Các nhà cung ứng hãy coi việc đưa sản phẩm lên các website Deal là một hình thức quảng cáo mới đầy hiệu quả. 
rao vat mien phi

Thứ Tư, 20 tháng 8, 2014

NỀN GIÁO DỤC NEW ZEALAND

NỀN GIÁO DỤC NEW ZEALAND


I. Tổng quan về New Zealand

1.     Thông tin chung:

-          Vị trí địa lý: New Zealand nằm ở Nam Thái Bình Dương, gồm hai đảo chính đảo Bắc và đảo Nam và nhiều đảo nhỏ; phía Tây trông sang Australia qua biển Tasman (cách khoảng 1.900km); phía Bắc trông ra biển Fiji; phía Đông và phía Nam là Thái Bình Dương.
-         Thủ đô: Wellington 
-         Ngày Quốc khánh: 6/2/1840 
-         Diện tích: 268.021km2
-         Khí hậu: Đa dạng, mang tính chất khí hậu biển, ôn đới và bán nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình là 12 độ C nhưng khác nhau rõ rệt giữa đảo Bắc và đảo Nam. Lượng mưa trung bình hàng năm là 400-5.000mm
-         Dân số: 4.367.700 người (2010)
-         Dân tộc: Người New Zealand gốc châu Âu (74,5%), người bản xứ Maori (9,7%), người gốc đảo Thái Bình Dương (3,8%), người gốc châu Á và các dân tộc khác (7,4%).
-         Đơn vị tiền tệ: Đôla New Zealand (NZD)
-         Tôn giáo: Anh Quốc giáo (24%), Giáo hội Scotland (18%), Thiên Chúa giáo La Mã (15%), Hội Giám lý (5%), Đạo Tin lành (3%)
-         Ngôn ngữ: Tiếng Anh; tiếng Maori (thổ ngữ)
-         Biểu tượng quốc gia: Chim kiwi và lá cây dương xỉ

2.      Lịch sử:
-         Khoảng  năm 1300 người châu Á từ phía Đông đặt chân tới New Zealand, họ trở thành những người thổ dân đầu tiên ở đất nước này - nay gọi là ngưòi Maori. Người Maori không xác định được chính gốc của mình và cái tên Maori là do người châu Âu định cư đặt tên. 
-         Năm 1642, người châu Âu đầu tiên phát hiện ra New Zealand đến từ Abel Tasman, Australia. 
-          Năm 1769, Thuyền trưởng Jame Cook tới New Zealand và báo về Anh Quốc.
Từ khoảng thời gian trên, một cuộc chiến giữa người Anh đến định cư và người bản xứ Maori đã diễn ra. Cuộc đấu tranh của người Maori kéo dài gần một thế kỷ, kết quả là hai bên đã thỏa hiệp và ký Hiệp định Waitangi ngày 6/2/1840 theo đó người Maori công nhận việc Hoàng gia Anh bảo hộ New Zealand để đổi lại việc Hoàng gia Anh thừa nhận quyền sở hữu đất đai của người Maori.
-         Năm 1865, Thủ đô New Zealand chuyển từ Auckland về Wellington. 
-         Năm 1907, New Zealand trở thành lãnh thổ tự trị, độc lập khỏi nước Anh.
-          Năm 1947, Quốc hội New Zealand thảo luận đạo luật Westminster (1931) và chấp nhận đạo luật này. Theo đó, New Zealand là một quốc gia độc lập nằm trong Khối Thịnh vượng chung.
-         Năm 1987, tiếng Maori được công nhận là ngôn ngữ chính thống cùng với Tiếng Anh trở thành hai ngôn ngữ chính tại New Zealand. 
-         Năm 1987, New Zealand tuyên bố trở thành khu vực phi hạt nhân. 
-         Năm 2003, Dân số New Zealand đat 4 triệu người.

3.     Chính trị:
-         Thể chế chính trị: Quân chủ Nghị viện.
-         Hiến pháp: New Zealand không có Hiến pháp chính thức bằng văn bản.
-         Cơ quan hành pháp:
o   Đứng đầu Nhà nước: Nữ hoàng Anh, thông qua Đại diện Toàn quyền. 
o   Đứng đầu Chính phủ: Thủ tướng. Thủ tướng là thủ lĩnh đảng hoặc liên đảng chiếm đa số trong Quốc hội.
-         Cơ quan lập pháp: Quốc hội (Viện dân biểu) gồm 122 đại biểu, nhiệm kỳ 3 năm.
-         Cơ quan tư pháp: Tòa án tối cao; Chánh án và Thẩm phán do Toàn quyền bổ nhiệm.
-         Chế độ bầu cử: Phổ thông đầu phiếu; Cử tri từ 18 tuổi trở lên.
-         Các Đảng phái lớn: Công đảng (LP) Đảng Dân tộc (NP), Đảng Tiến bộ, Đảng Tương lai Đoàn kết, Đảng Xanh...

4.     Kinh tế:
-         New Zealand có cơ sở kinh tế công- nông nghiệp phát triển, trong đó chăn nuôi giữ vai trò quan trọng. 
-         Nền kinh tế New Zealand chủ yếu dựa vào thương mại, xuất nhập khẩu hàng hóa. New Zealand có quan hệ thương mại với hầu hết các nước trên thế giới. 
-         Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm đạt 2%. Tuy nhiên, do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, năm 2009 GDP tăng trưởng âm 1,6% , tỷ lệ thất nghiệp 6,2%, tỷ lệ lạm phát 2,1%. Sang năm 2010, kinh tế New Zealand đã có dấu hiệu phục hồi, với GDP quý I-2010 tăng 0,6%.
-         Về công nghiệp: Tổng giá trị các sản phẩm công nghiệp chiếm 23,7% GDP và thu hút 19% lực lượng lao động. Sản phẩm công nghiệp chính: Thực phẩm, các sản phẩm gỗ và giấy, hàng dệt, máy móc, thiết bị vận tải...
-         Về nông nghiệp: Tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp chiếm 4,6% GDP và thu hút 7% lực lượng lao động. Sản phẩm nông nghiệp chính: Lúa mì, lúa mạch, khoai tây, đậu đỗ, hoa quả, rau; len; thịt bò, các sản phẩm sữa; cá. 
-         Về Dịch vụ-Du lịch: Tổng giá trị lĩnh vực dịch vụ, du lịch chiếm 71,7% GDP và thu hút 74% lực lượng lao động.
-          Xuất khẩu: 24,99 tỷ USD (năm 2009). Các mặt hàng xuất khẩu chính: Len, thịt cừu, thịt bò, cá, bơ, pho mát, rau, hoa quả, các sản phẩm sữa, gỗ, lâm sản, hoá chất, máy móc.  Bạn hàng xuất khẩu chủ yếu: Australia (23,2%); Mỹ (10,1%); Nhật Bản (8,4%); Trung Quốc (5,9%) (năm 2009). 
-          Nhập khẩu: 23,45 tỷ USD (năm 2009). Các mặt hàng nhập khẩu chính: Máy móc và thiết bị, xe cộ và máy bay, dầu mỏ, hàng tiêu dùng, điện tử, dệt may và đồ nhựa. Bạn hàng nhập khẩu chủ yếu: Australia (18,1%); Trung Quốc (13,2%); Mỹ (9,5%); Nhật Bản (8,3%); Singapore (4,7%); Malaysia (4,4%) (năm 2009).
5. Văn hóa
-         Đất nước New Zealand rất tự hào về nền di sản văn hóa maori đa bản địa của mình. New Zealand bị ảnh hưởng mạnh bởi văn hóa Anh do trước đây là thuộc địa Anh Quốc đồng thời chịu ảnh hưởng rõ rệt của các nền văn hóa đa sắc tộc do di dân từ Đông Nam Á và khu vực Thái Bình Dương.
-         Giáo dục: Tỷ lệ biết đọc, biết viết: 99% trên tổng số dân.
-         Giáo dục miễn phí và bắt buộc trong 11 năm. New Zealand có 8 trường đại học công lập, 27 trường cao đẳng và viện kỹ thuật, trong đó có trường Đại học Victoria là lâu đời nhất, lớn nhất và có uy tín nhất. 


II. Nền giáo dục của New Zealand
1.     Lịch sử phát triển của nền giáo dục New Zealand

-         Trường học đầu tiên của New Zealand được thành lập bởi nhóm truyền giáo để giáo dục và hướng đạo Maoris. Trường trung học đầu tiên của nước này là St. John's Theological College được thành lập năm 1843 bởi Giáo hội Anh giáo. 

-         Hiến pháp luật pháp năm 1852 đã thành lập hội đồng cấp tỉnh chịu trách nhiệm quản lý giáo dục. Trong suốt những năm 1850 và 1860, hội đồng thành lập nhiều trường tiểu học công lập ở cả các khu vực nông thôn. Tuy nhiên, điều này không tạo được sự phát triển mạng lưới trường công lập miễn phí trên toàn quốc.  Thay vì thành lập trường công lập của tỉnh, một số hội đồng đã lựa chọn hỗ trợ tài chính cho các trường giáo phái.  Điều này tạo ra một số bất đồng về sự thiên vị trong việc phân bổ các ngân sách. Thống đốc, Sir George Grey, đã nỗ lực thúc đẩy việc thành lập các trường trung học, được phê duyệt cấp đất giúp địa phương xây dựng các trường trung học, cả trường cao đẳng và trường học ngữ pháp. Các trường trung học đầu tiên là các trường tư thục. Năm 1851, Christ's College được thành lập tại nhà thờ chúa dựa trên trường công Anh quốc (thuộc tư nhân). Một trong những trường đầu tiên là Auckland Grammar School, một trường học cho trẻ em trai được thành lập vào năm 1869. Tuy là trường công lập, 68 trẻ em trai ban đầu được ghi danh đều buộc phải đóng học phí.  Chương trình giảng dạy truyền thống, tập trung vào Latin, tiếng Anh và lịch sử. 

 








-         Năm 1876, cải cách hiến pháp đã bãi bỏ hội đồng các tỉnh và thành lập một chính quyền thực dân tập trung, có một tác động lớn lên giáo dục New Zealand. Chính phủ trung ương đảm nhận trách nhiệm hoàn toàn về giáo dục công lập. Trong những năm sau đó, Luật Giáo dục năm 1877 đã thiết lập một hệ thống giáo dục quốc gia không có đạo. Chính phủ đã tiến hành thành lập hệ thống trường tiểu học công lập không đạo rộng lớn, miễn phí và bắt buộc. Chương trình giảng dạy quốc gia đã được giới thiệu. Trợ cấp xã hội cho các trường phái chấm dứt. Giáo hội Công giáo New Zealand quyết định thành lập hệ thống riêng của họ về trường học giáo xứ. Bộ Giáo dục (DOE) đã được tạo ra để giám sát hội đồng giáo dục trong mỗi 12 khu vực trường học mới. . Một số trường trung học công lập nổi tiếng nhất của New Zealand đã được thành lập trong giai đoạn này, ví dụ như  Nelson College, Christchurch Boys High School (1881). Trong khi các trường trung học mới là trường công lập, nhưng học theo chương trình giảng dạy truyền thống của các trường học (tư nhân) Anh quốc, phải nộp lệ phí. Các khoản phí và yêu cầu đầu vào chỉ dành riêng cho một số ít sinh viên. 

-         Các trường học và giá trị văn hóa New Zealand trong thời gian này chịu kiểm soát bởi người Anh. Người Maoris không bị loại trừ, nhưng vì hầu hết người Maori sống ở khu vực nông thôn hẻo lánh, tương đối ít tham dự các trường tiểu học Pakeha và hầu như không bao giờ tham dự các trường trung học Pakeha. Không có chỗ cho văn hóa Maori trong trường học. Một số trường dành cho trẻ em Maori, nhưng các trường này tập trung vào văn hóa Anh và văn hóa Maori và các giá trị không được công nhận có giá trị. Nhiều bậc cha mẹ Maori từ chối gửi con đến các trường học. 


-         Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, các tổ chức thúc đẩy cải thiện hệ thống các trường tiểu học và thiết lập hệ thống các trường trung học tiểu bang. Một trong những nhân vật chủ chốt trong giai đoạn này là George Hogben, từng là Tổng Thanh tra Giáo dục 1899-1915. Ông là một người nhiệt tình, phát ngôn viên tiến bộ cho việc mở rộng hệ thống nhà nước. Ông đã giúp để thiết lập một hệ thống chương trình giảng dạy, kiểm tra hiện đại, tiên tiến, cung cấp cho hệ thống nhà nước hệ thống quốc gia tập trung và có mục đích mà trước đây không có. Ông đã giúp nâng cao năng lực của giáo viên New Zealand, trình độ chuyên môn và tiền lương tăng. Ông mở rộng giáo dục kỹ thuật, tạo ra hệ thống giáo dục học tập khắt khe, nhưng tính chọn lọc cao. 

-         Thế chiến thứ nhất (1914-1918): New Zealand trung thành theo Anh quốc trong chiến tranh thế giới I. Thế chiến thứ nhất đã có một tác động lớn về chính trị New Zealan.  Hệ thống giáo dục rộng mở hơn tạo cơ hội cho tất cả các tầng lớp xã hội New Zealand đi học. New Zealand cải cách đáng kể hệ thống giáo dục trong năm 1930 và 40. Bước quan trọng đã được thực hiện để mở rộng cơ hội học tập cho tất cả người New Zealand, cải cách được đấu tranh bởi Đảng Lao động. Peter Fraser, Bộ trưởng Giáo dục Lao động 1935-40 và Thủ tướng Chính phủ trong thời chiến, là một người Scotland với sứ mệnh - thiết lập một hệ thống giáo dục bình đẳng cho tất cả những người trẻ tuổi bất kể hoàn cảnh gia đình. Năm 1936 Chính phủ Lao động thực hiện tài trợ giáo dục, miễn phí cho tất cả người New Zealand đến 19 tuổi, những người đã hoàn thành tiểu học. Bước cải thiện đáng kể khác là lương giáo viên tăng đã thu hút nhân sự có trình độ tốt hơn. Chương trình giảng dạy được mở rộng, nhiều mối quan tâm cho việc thiết kế các công trình trường học. Tuổi rời trường học đã được nâng lên 15 trong năm 1944.

-         Thế chiến II (1939-1945): New Zealand lại theo Anh quốc, nhưng lần này tuyên bố chiến tranh với Đức (1939). Giáo viên được cho phép vắng mặt nghĩa vụ quân sự. Lực lượng quân sự Mỹ đổ vào Australia và New Zealand để chuẩn bị cho cuộc tấn công chống lại Nhật Bản. Kinh nghiệm từ cuộc chiến tranh làm thay đổi quan điểm của New Zealand với Anh quốc, họ không còn thấy Anh quốc như là một quốc gia nước ngoài. Điều này đã được phản ánh trong nhiều lĩnh vực, bao gồm giáo dục. Sau chiến tranh giáo dục, New Zealand bắt đầu xem xét các chương trình giáo dục ở Mỹ. Năm 1964, Luật Giáo dục được cải cách và ban hành. Luật thành lập tiêu chuẩn kiểm soát và quản lý hệ thống nhà nước, cung cấp giáo dục phổ cập miễn phí cho tất cả trẻ em từ 6 đến 15 tuổi, thành lập 10 hội đồng giáo dục để giám sát các trường tiểu học trong cả nước.

-         Nguồn gốc của trường tiểu học: Việc thông qua Luật Giáo Dục 1877 thành lập hệ thống quốc gia tự do đầu tiên về giáo dục tiểu học. Trước đó trẻ em học một trường chi phối bởi các chính quyền địa phương hoặc một trường học nhà thờ, hoặc trường tư. Tuy nhiên, nhiều trẻ em không được đi học, đặc biệt ở khu vực nông thôn, nơi lao động là quan trọng hơn. Chất lượng giáo dục rất khác nhau phụ thuộc vào tổ chức cung cấp. Luật Giáo dục năm 1877 đã thiết lập các tiêu chuẩn về chất lượng giáo dục, và theo phương hướng "tự do, bắt buộc và không theo đạo". Việc học tiểu học đã trở thành bắt buộc đối với trẻ em lứa tuổi từ 5 đến 15.

-         Nguồn gốc của trường trung học: Vào năm 1900, ít hơn 10 % dân số của New Zealand đã đến trường trung học, giáo dục không miễn phí. Hầu hết những người học trường trung học hướng đến các trường đại học và các ngành nghề. Thời gian cuối thế kỷ 19 và thế kỷ 20 cần nhiều việc làm lao động hơn so với chất lượng giáo dục và học thuật. Sau đó, khi đất nước phát triển cần thợ có tay nghề cao và các quản trị viên, và các lĩnh vực học thuật cũng được mở rộng.
Luật Giáo Dục 1914 yêu cầu tất cả các trường trung học cung cấp giáo dục miễn phí cho tất cả những người đã qua một cuộc kiểm tra trình độ. Do đó năm 1917, 37% dân số đã đến trường trung học.
Cũng như khối lượng giáo dục tiểu học đã được tạo ra để cung cấp lao động cho ngành công nghiệp, cấp trung học đã đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Tuy nhiên, chúng ảnh hưởng hệ thống trường học ngữ pháp của Anh, và được cung cấp chương trình giảng dạy truyền thống.

-         Sự cải cách: Trong những năm 1980, giáo dục New Zealand trải qua cải cách lớn. Vào đầu thập kỷ, chính phủ kêu gọi xem xét lại chương trình giảng dạy. Hai báo cáo lớn xuất hiện. Đầu tiên là Administering for Excellence được viết bởi Giáo sư Peter Ramsay của Đại học Waikato, Margaret Rosemergy, giảng viên Cao đẳng Sư phạm Wellington, Whetumarama Rolleston, một nhà xã hội học, doanh nhân Dunedin và các thành viên hội đồng trường đại học Otago Colin Wise. Báo cáo là hỗn hợp của các nguyên tắc giáo dục tốt và một mô hình kinh doanh giáo dục với nhiều thỏa hiệp, phản ánh tình trạng căng thẳng nội bộ. Bản báo cáo thứ 2 được gọi là Tomorrow Schools, được soạn thảo bởi các quan chức gồm Robinson và Smelt, không có nhà giáo dục, đã được chấp nhận của Bộ trưởng Bộ Giáo dục, David Lange và các đồng nghiệp, đây là 1 kế hoạch chi tiết cho tổ chức hệ thống trường học của New Zealand trong tương lai. Chính phủ thay thế các Sở Giáo dục với ba cơ quan mới - Bộ Giáo dục, văn phòng phê bình giáo dục và cơ quan có trình độ chuyên môn. Sự sắp xếp này được áp dụng đến hôm nay trong tất cả các trường ở New Zealand.

2.     Một số vấn đề chung của giáo dục ở New Zealand
-         Nền giáo dục của New Zealand được đánh giá khá cao trên thế giới. Tại đây có đến 8 trường đại học công lập có cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên đẳng cấp quốc tế. Hơn thế nữa, bằng cấp của 8 trường đại học này được công nhận trên toàn thế giới, vì vậy sau khi tốt nghiệp các sinh viên và du học sinh có rất nhiều cơ hội để làm việc tại các công ty, tổ chức mang tầm quốc tế.
-         Tại New Zealand, bạn có rất nhiều lựa chọn về các ngành học và các trường đại học. Các trường đại học, các viện Công nghệ và Bách khoa (ITPs), các tổ chức đào tạo tư nhân (PTEs) và các tổ chức đào tạo theo ngành (ITOs) đem đến cho sinh viên những sự lựa chọn đa dạng nhất. Bên cạnh các lựa chọn về loại hình các trường đại học mà bạn có thể theo học, bạn cũng có các lựa chọn về hình thức học tập mà bạn mong muốn. Hiện có rất nhiều các khóa học khác nhau tại 20 viện công nghệ và bách khoa công lập (ITPs), ngoài ra bạn cũng có các lựa chọn về dạy nghề cũng như các lựa chọn học chính quy và tại chức.
-         Bộ Giáo dục New Zealand đã xây dựng Bộ quy tắc ứng xử của giáo viên đối với sinh viên quốc tế. New Zealand là quốc gia đầu tiên đưa ra những tiêu chuẩn về việc chăm lo và ứng xử với sinh viên và du học sinh quốc tế. Điều này thể hiện sự quan tâm của các trường đại học và tổ chức giáo dục của nước này đối với quyền lợi của sinh viên và du học sinh quốc tế.
-         Có khoảng 700 đến 800 cơ sở đào tạo tư nhân (PTEs) đăng kí hoạt động tại New Zealand, trong đó rất nhiều trường cung cấp cả cáckhóa học tiếng Anh cho sinh viên và du học sinh. Mỗi trường có những yêu cầu tuyển sinh khác nhau đối với sinh viên và du học sinh quốc tế.



a. Các khóa học đa dạng tại New Zealand:
Sinh viên và du học sinh quốc tế tại New Zealand có thể tìm kiếm chọn lựa các khóa học rất đa dạng tại các trường đại học hoặc cơ sở đào tạo trên trang web của Hotcourses Việt Nam.
Các bằng cấp mà các trường đại học và các cơ sở đào tạo tại New Zealand cung cấp bao gồm các chứng chỉ nghề, chứng chỉ cho các khóa học bằng cao đẳng và bằng cử nhân ở bậc đại học, bằng sau đại học gồm bằng thạc sỹ hoặc tiến sỹ.
Các bằng ở New Zealand được công nhận đều thuộc Khung Bằng cấp New Zealand được chính phủ New Zealand kiểm định, do vậy bằng NZQF được công nhận trên toàn New Zealand và tại rất nhiều các quốc gia khác.
b. Các loại hình giáo dục tại New Zealand:
Ngành giáo dục đại học ở New Zealand được tạo nên bởi 8 trường đại học công lập, 20 học viện Công nghệ và Bách khoa (ITP) và hàng chục trường đào tạo tư nhân (PTE) trong đó nhiều trường có các khóa học chuyên ngành.
Trước khi nộp đơn đăng ký vào trường bạn chọn, bạn phải chắc chắn rằng trường đó đã đăng ký Quy Tắc Ứng Xử và Chăm Sóc Sinh Viên Quốc Tế. Quy tắc hoạt động này đề ra tiêu chuẩn về phúc lợi của sinh viên để đảm bảo nhà trường đưa ra những lời khuyên phù hợp với nhu cầu của sinh viên quốc tế. Tất cả các nhà cung cấp giáo dục muốn đăng ký chứng nhận này đều phải đảm bảo thực hiên đúng những điều kiện mà bản chứng nhận đưa ra. Quy tắc này áp dụng vào việc chăm sóc tinh thần và cung cấp thông tin cho sinh viên nhưng không bao gồm tiêu chuẩn giáo dục.
c. Các loại hình khóa học:
Tất cả các trường đại học ở New Zealand đều có các khóa học cấp bằng cử nhân và sau đại học, hoặc cao đẳng các chuyên ngành nghệ thuật, khoa học và thương mại cũng như các bằng cấp chuyên ngành.
Các PTEs và ITPs cung cấp cho sinh viên các khóa học đa dạng về hàn lâm và khóa học chuyên môn. Các trường Bách khoa và Viện công nghệ cho phép bạn lựa chọn giữa các khóa học ngắn hạn chuyên đào tạo một số kỹ năng nhất định, hoặc bạn cũng có thể lựa chọn trong số hàng loạt khóa học cấp chứng chỉ hay bằng cao đẳng.

d. Luật nhập cư của New Zealand:
Không cho phép bất cứ sinh viên hay du học sinh quốc tế nào được học tạị một trường đại học hay tổ chức giáo dục mà không được cơ quan quản lý giáo của New Zealand (NZQA) công nhận. Bạn có thể truy câp trực tiếp vào website của NZQA để tìm hiểu thông tin về các trường đại học và các tổ chức giáo dục mà bạn có ý định đăng ký học. Bạn cũng có thể tìm hiểu các thông tin về cuộc sống và học tập tại New Zealand và cơ cấu tổ chức hệ thống giáo dục của New Zealand tại website của BộGiáo Dục của nước này.
c. Xếp hạng tổ chức giáo dục:
Các trường đại học của New Zealand luôn được các doanh nghiệp và tổ chức quốc tế đánh giá cao. Nhiều trường đại học của nước này thường xuyên có mặt trong các bảng xếp hạng đại học quốc tế như top 500 trường đại học uy tín thế giới do tờ The Times và Xếp hạng 500 tổ chức giáo dục hàng đầu thế giới do Đạihọc Giao thông Thượng Hải đánh giá.
3. Cấu trúc hệ thống giáo dục tại New Zealand


a. Giáo dục Bậc tiểu học:
Từ lớp 1 đến lớp 8 ( học sinh có độ tuổi từ 5-12 tuổi ). Có 4 kì nhập học trong 1 năm là tháng 2, tháng 4, tháng 7 và tháng 10 nghỉ hè từ tháng 11 đến tháng 2.


b. Giáo dục bậc trung học:
Từ lớp 9 đến lớp 13 ( học sinh có độ tuổi từ 13 đến 19 tuổi ). Trong bậc học này học sinh sẽ tham gia 3 kì thi cấp chứng chỉ quốc gia mang tên NCEA

+ Kì thi chứng chỉ quốc gia cấp độ 1 ( NCEA ) vào năm lớp 11 , hết kì thi này học sinh có thể vào học tại các trường cao đẳng thời gian 01 năm để lấy chứng chỉ, học tiếp 01 năm sau chứng chỉ để lấy bằng Diplom 02 năm và 01 năm tiếp theo tại trường ĐH chuyên ngành

+  Kì thi chứng chỉ quốc gia cấp độ 2 ( NCEA ) vào năm lớp 12, hết kì thi này học sinh có thể vào học thẳng cao đẳng 02 năm lấy bằng Diplom sau đó học 01 năm ĐH chuyên ngành

+  Kì thi chứng chỉ quốc gia cấp độ 3 ( NCEA ) vào năm lớp 13, Hết kì thi này học sinh vào thẳng ĐH chuyên ngành 03 năm.

Đặc biệt: Trẻ em từ 5 tuổi đến 16 tuổi phải tham gia chương trình giáo dục bắt buộc và không phải đóng học phí từ bậc tiểu học đến trung học.

c. Giáo dục bậc đại học:



+ Viện Công nghệ và Bách khoa:
Ngoài các trường đại học, cao đẳng và wãnanga (trường công dành cho người Maori), các học viện công nghệ & bách khoa New Zealand thành lập theo Bộ luật Giáo dục bổ sung ban hành năm 1989 cũng được xem thuộc quyền sở hữu của chính phủ. New Zealand có 22 Viện Công nghệ và Bách khoa với các khóa học về dạy nghề và kỹ năngvới nhiều trình độ khác nhau, từ chứng chỉ, cử nhân đại học cho đến sau đại học. Nhiều khóa học toàn thời gian và bán thời gian được mở suốt cả năm. Các học viện lớn nổi tiếng của New Zealand:

·         Học viện kỹ thuật công nghệ UNITEC  – Auckland
·         Waikato Institute of Technology ( Wintec ) – Hamilton
·         Wellington Institute of Technology ( Weltec ) – Wellington
·         Bay of Plenty Polytechnic – Tauranga
·         Southern Institute of Technology ( SIT ) – Invercargo
·         Eastern Institute of Technology (EIT) – Gần Napier
·         Otago Polytechnic – Dunedine
·         Christchurch Polytechnic Institute of Technology ( CPIT )
·         Manukau Institute of Technology ( MIT ) - Auckland
·         Nelson Marlborough Institute of Technology ( NMIT) – Nelson

+ Trường Đại học và các Cơ sở Đào tạo Tư thục:
- Các trường tư thục xuất hiện ngày càng nhiều tạo ra nhiều cơ hội học tập cho sinh viên lựa chọn. Các chương trình đào tạo rất đa dạng, từ chứng chỉ chuyên nghiệp, cao đẳng cho đến bằng cử nhân ở những ngành học khác nhau như nghệ thuật, nhà hàng khách sạn, nghiên cứu máy tính, thư ký, quản lý chất lượng, du lịch sinh thái… Trên 800 cơ sở đào tạo có đăng ký với Cơ quan quản lý chất lượng giáo dục New Zealand (NZQA). Khoảng 1/4 trong số này do người Maori sở hữu và điều hành.
- Thông thường, bằng đại học được hoàn tất trong 3 năm, có những chương trình hoàn tất trong 4 năm. Học sinh học thêm một năm nữa để lấy bằng Cử nhân danh dự.
- Các chương trình đại học New Zealand đều có chương trình dự bị đại học giúp học sinh quốc tế chuẩn bị vào đại học, thường kéo dài 1 năm. Các môn học bao gồm Anh văn, Toán và các môn học bổ túc khác.
- Năm học tại các trường đại học kéo dài từ cuối tháng 2 đến tháng 12, với các kỳ nghỉ giữa hai kỳ học. Một số trường hoạt động theo hệ thống học kỳ với 2 lần nhập học trong một năm (tháng 2 và tháng 7).
- Sau khi hoàn tất chương trình Cử nhân, sinh viên có thể vào học 02 năm tiếp theo để lấy bằng cao học ( Master ) và 04 năm lấy bằng Doctor
- Hệ thống văn bằng của giáo dục trên phổ thông được chia thành 10 cấp độ ( level):
. Chứng chỉ: level 1 – level 4
. Cao đẳng: level 5 – level 6
. Cử nhân/ Chứng chỉ sau đại học: level 7
. Cử nhân danh dự: level 8
. Thạc sĩ: level 9
. Tiến sĩ: level 10

c. Giới thiệu về trường Đại học Auckland
Trường Đại học Auckland là trường đại học hàng đầu về lĩnh vực nghiên cứu ở New Zealand. Được thành lập vào năm 1883, đến nay trường đã trở thành một trung tâm giáo dục Quốc tế xuất sắc và là trường đại học lớn nhất New Zealand.

- Giới thiệu về trường:
Đại học Auckland được xếp hạng thứ 52 trong bảng xếp hạng các trường đại học tốt nhất thế giới của tạp chí Times. Tính chất quốc tế tế hoá của trường còn được thể hiện ở sự kiện Đại học Auckland là trường đại học duy nhất của New Zealand được mời tham gia vào tổ chức Universitas 21 và Hiệp hội các trường đại học khu vực vành đai Thái Bình Dương. 
- Địa điểm: 
Auckland là một thành phố sôi động, phát triển và đa văn hoá với dân số khoảng 1,3 triệu dân. Là thành phố lớn nhất và là trung tâm kinh tế của New Zealand, Auckland nổi tiếng là nơi hội tụ của nhiều nền văn hoá như châu Âu, người Maori (ở New Zealand). 
Trường Đại học toạ lạc ngay trung tâm của thành phố quốc tế Auckland. Trường mang đến cho hơn 40,000 sinh viên một môi trường giáo dục đa dạng và hứng thú. Vị trí thuận lợi của trường tạo điều kiện cho sinh viên được đáp ứng đầy đủ các nhu cầu như đang sống và học tập tại một thành phố quốc tế.

- Trường và cơ sở vật chất: 
Trường đại học Auckland có năm cơ sở đào tạo: Cơ sở ở trung tâm thành phố, cơ sở Tamaki, cơ sở Grafton, cơ sở North Shore và cơ sở Epsom.
Trường có cơ sở vật chất đạt tiêu chuẩn quốc tế và hỗ trợ mọi yêu cầu của sinh viên, từ việc học tập đến giải trí và các hoạt động xã hội. Trường tạo điều kiện để sinh viên có thể phát huy các kỹ năng trong học tập, các kinh nghiệm trong làm việc để đạt được những mục tiêu học thuật của mỗi người.

- Các dịch vụ hỗ trợ sinh viên: 
     . Thư viện lớn nhất New Zealand
. Trung tâm thông tin Kate Edger với hơn 1,200 chỗ ngồi và hơn 500 máy tính.
. Trung tâm giải trí và thể thao tại cơ sở trung tâm.
. Hiệp hội sinh viên Trường Đại học Auckland và những hiệp hội khác.
. Khu vực thờ cúng dành riêng cho tín đồ các tôn giáo khá nhau.
. Cung cấp dịch vụ về sức khoẻ cho sinh viên.
. Tiệm cắt tóc, tư vấn du lịch, nhà thuốc, nhà sách, café…

- Chương trình học và điều kiện xét tuyển: 
Sự đa dạng về các chương trình học chú trọng phần nghiên cứu của trường được công nhận trên toàn thế giới, và thu hút nhiều sinh viên theo học bậc đại học và sau đại học, Trường cung cấp hơn 86 chuyên ngành, và hơn 25 chuyên ngành giành cho bậc Cử nhân (Bằng 1). Bạn có thể học hai bằng đại học cùng một lúc (bằng kép) và tiếp tục chương trình học ở bậc Thạc sĩ và Tiến sĩ.

- Điều kiệnTiếng Anh: 
• Không môn nào dưới 5.5 ( đối với bậc Đại học), và không môn nào dưới 6.0 ( đối với bậc sau Đại học) Bài kiểm tra Bậc Đại học, Bậc sau Đại học TOEFL và IELTS. Một số chương trình học sẽ yêu cầu điểm cao hơn:
• Không môn nào dưới 6.5 (đối với Chương trình sau Đại học ngành Thương mại và Luật), 6.0 (Đối với ngành Kỹ sư) và 7.0 (đối với ngành Giáo dục và Dược)
• Chương trình sau Đại học chuyên ngành Giáo dục bao gồm: Chứng chỉ sau Đại học và Thạc sĩ chuyên ngành Giáo dục. 
• Sau Đại học chuyên ngành Giảng dạy bao gồm: Chứng chỉ sau Đại học chuyên ngành Giảng dạy (Tiểu học, Trung học), và các Chứng chỉ về Giảng dạy khác.
- Nơi ở : 
Trường cung cấp nhiều lựa chọn cho sinh viên về nơi ở tuỳ theo nhu cầu của từng sinh viên.
- Ký túc xá
- Căn hộ
- Nhà người bản xứ hoặc căn hộ tư nhân
4. Thành công của nền giáo dục New Zealand
- New Zealand nổi tiếng thế giới là một nơi cung cấp giáo dục chất lượng. New Zealand có một hệ thống giáo dục tiên tiến với nhiều nơi có các cơ sở đào tạo khoa học, xã hội và nghệ thuật. Nó cung cấp một môi trường học tập an toàn với cơ hội học tập tuyệt vời và dịch vụ hỗ trợ cho sinh viên quốc tế chuyên nghiệp. Các khóa học có sẵn cung cấp các khóa học kiến thức hàn lâm lẫn dạy nghề tại New Zealand được tổ chức tại Các trường đại học lớn, các Viện công nghệ, Trường cao đẳng, Trường trung học và Cơ sở đào tạo tư nhân.
- Những sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học của New Zealand có thể tự tin trên trường quốc tế trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Sir Ernest Rutherford, người đầu tiên tách nguyên tử, và Tiến sĩ Bryan Barrett-Boyes, bác sĩ phẫu thuật tim nổi tiếng thế giới, đó là hai ví dụ của các sinh viên tốt nghiệp loại ưu của New Zealand.

a. Đóng góp vào giá trị nền kinh tế
Ngày nay, công nghiệp giáo dục quốc tế đứng thứ năm trong các ngành công nghiệp xuất khẩu của New Zealand, hằng năm đóng góp vào giá trị kinh tế khoảng $2.5 tỷ Đô La NZ hoặc $2 tỷ Đô La Mỹ . Và Chính Phủ New Zealand muốn gia tăng gấp đôi giá trị kinh tế của ngành công nghiệp giáo dục này trong 15 năm tới. Sự phát triển này là một cách để tăng doanh thu cho các trường đại học, công nghiệp hóa các tổ chức cũng như là cải thiện vị trí tầng lớp lao động lành nghề của quốc gia này.
 b. Chất lượng đào tạo
b.1. Xếp hạng giáo dục
+ Xếp hạng các trường:
- Trong nghiên cứu về đánh giá các chương trình giáo dục cho học sinh quốc tế (PISA) của Tổ chức Hợp tác & Phát triển kinh tế (OECD), hệ thống giáo dục của New Zealand được đánh giá rất cao. Trong nghiên cứu PISA gần đây nhất, New Zealand được xếp trong Top 4 các quốc gia hàng đầu với các tiêu chí như khả năng đọc & khoa học, Top 8 khả năng toán học. Bên cạnh đó, các trường đại học ở  New Zealand được xếp vào nhóm 500 trường đại học hàng đầu thế giới theo Tạp chí Times Higher Education hay Shanghai Jiao Tong.
- Đặc điểm của các trường đại học ở New Zealand; chuyên ngành mạnh của các trường; xếp hạng theo tiêu chí đào tạo và nghiên cứu. Tại đây có đến 8 trường đại học công lập có cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên đẳng cấp quốc tế. Hơn thế nữa, bằng cấp của 8 trường đại học này được công nhận trên toàn thế giới, vì vậy sau khi tốt nghiệp các sinh viên và du học sinh có rất nhiều cơ hội để làm việc tại các công ty, tổ chức mang tầm quốc tế. Các trường đại học này cung cấp dịch vụ đào tạo theo mô hình của hệ thống đào tạo kiểu Anh-Mỹ là Bachelor (cử nhân) – Master (Thạc sĩ) – Doctorat (Tiến sĩ), tương đương với mô hình chung của Châu Âu mới được áp dụng là LMD (Licence – Master – Doctorat). Đó là các trường:
Đại học Auckland: là một trong 50 Đại học hàng đầu thế giới, trường ĐH hàng đầu NZ về các khóa học nghiên cứu
Đại học AUT: nổi tiếng về các chuyên ngành Kỹ Thuật, máy tính, kinh tế
Đại học Waikato: Là trường dẫn đầu của New Zealand dạy về ngành kinh tế, tài chính, hóa học, truyền thông, báo chí với hơn 3000 khóa học đào tạo các chuyên ngành khác nhau
Đại học Massey: Là trường có số lượng sinh viên lớn nhất NZ với hơn 35.000 sinh viên theo học, hơn 80 năm kinh nghiệm dạy truyền thống, nổi tiếng đào tạo ngành Nông nghiệp
Trường ĐH Victoria – Wellington: với hơn 21 nghìn sinh viên theo học, bao gồm 3000 sinh viên quốc tế đến từ 80 quốc gia trên thế giới, . Trường có thế mạnh giảng dạy ngành Kiến trúc, Thiết kế , giáo dục, luật , kinh tế và du lịch
Đại học Canterbusy:  Trường ĐH nghiên cứu hàng đầu New Zealand, trường do Đại học Cambrige cung cấp các chương trình đại học và sau đại học
Đại học Lincoln  Massy: nổi tiếng về các ngành học Nông nghiệp, cây trồng, bảo vệ thực vật…...
Đại học Otago: nổi tiếng chuyên ngành Y

Theo điều tra của Times Higher Education Supplement vào tháng 11 năm 2005, các yếu tố được xem xét bao gồm cả việc giảng dạy và việc nghiên cứu ở các trường đại học thì có ba trường đại học ở New Zealand được xếp vào hạng 200 trường tốt nhất thế giới, đó là : Auckland (52), Otago (186), Massey (188).
Các trường đại học ở bốn thành phố lớn được đánh giá là tốt nhất về mặt nghiên cứu (chứ không phải là về mặt giảng dạy) là:

Năm 2006 
Năm 2003
University of Otago, Dunedin
University of Auckland
University of Auckland
University of Canterbury, Christchurch
University of Canterbury, Christchurch
Victoria University of Wellington
Victoria University of Wellington
Otago University, Dunedin
Năm 2009, Chương trình đánhgiá sinh viên quốc tế, do OECD xuất bản, xếp giáo dục NZ đứng thứ 7 về khoa học trên thế giới, đứng thứ 13 về môn toán…Giáo dục bậc cao tại NZ cũng rất xuất sắc về chất lượng, với tỷ lệ các trường đại học xếp vào top 200 trường trên thế giới cao nhất so với các nước khác.
v 5 trưng đại học đỉnh tại New Zealand
Không chỉ nổi tiếng bởi kiến trúc độc đáo, mà chất lượng đào tạo của những trường này cũng là niềm mơ ước của nhiều sinh viên tại đất nước New Zealand.
Ÿ Đại học Otago
Với sở trường là đào tạo chuyên sâu sinh viên về Y học. Trường Đại học Otago thành lập năm 1869 bởi một sắc lệnh của Hội đồng tỉnh Otago và là trường ĐH lâu đời nhất của New Zealand. Năm 2006, Otago được xếp vào danh sách 100 trường ĐH hàng đầu thế giới bởi tạp chí Times Higher Education Supplement. Đây cũng là trường ĐH thu hút nhiều sinh viên Quốc tế đến học tập.
Các sinh viên tốt nghiệp ĐH Otago luôn đạt được tỷ lệ chấp thuận cao trong các cuộc nghiên cứu đánh giá của các nhà tuyển dụng và theo đuổi nghề nghiệp rất thành công trên khắp thế giới. Otago có chương trình nghiên cứu mở rộng và các mối liên kết trao đổi sinh viên với các trường đại học hàng đầu ở châu Á, châu Âu và châu Mỹ.
Ÿ Đại học Waikato
Đây là trường Đại học công lập cung cấp chương trình giáo dục chất lượng cao, được quốc tế công nhận cho tất cả các sinh viên từ nhiều quốc tịch khác nhau. Cuối thế kỷ trước, New Zealand có bốn trường ĐH được thành lập trong các trung tâm chính nhưng tại Waikato thì chưa có trường ĐH nào. Chính vì vậy, năm 1956, một số người dân tại địa phương Hamilton quyết định muốn có trường đại học của riêng mình. Đến năm 1964, Tổng Thống đốc, Sir Bernard Fergusson đã chính thức mở trường ĐH Waikato.
Trường Đại học Waikato được xây dựng ở một khuôn viên xanh với diện tích 68 ha, tại thành phố Hamilton. Waikato được nhiều người biết đến như là một ngôi trường luôn phát triển và sáng tạo, luôn xây dựng nhiều chương trình học để đáp ứng nhu cầu của môi trường làm việc quốc tế không ngừng thay đổi.
Là một trường có thế mạnh về giảng dạy và nghiên cứu, bằng cấp của Waikato được công nhận trên toàn thế giới. Năm 2005, ĐH Waikato có gần 13,000 sinh viên, trong đó có khoảng 2,000 sinh viên quốc tế từ hơn 70 nước. Năm 2006, trong báo cáo về các trường ĐH và CĐ New Zealand, Waikato được xếp hạng nhất về giáo dục. Đến với ngôi trường Waikato, sinh viên có thể yên tâm với các loại hình ăn ở đa dạng của trường.
Ÿ Đại học Massey
Được thành lập 1927, chưa đến 100 năm tuổi nhưng đây là một trong 3 trường ĐH lớn và chất lượng nhất New Zealand, top 100 trường đại học lớn khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, top 500 trường ĐH công lập lớn và uy tín nhất thế giới. Năm 2009, Massey tự hào được Hiệp hội các Trường ĐH kinh doanh cao cấp toàn cầu - AACSB - kiểm định và công nhận nằm trong top 5 các trường ĐH Kinh doanh cao cấp thế giới.
Ÿ Đại học Lincoln
Đại học Lincoln là đại học công lập do chính phủ New Zealand thành lập năm 1878, xuất phát là đại học chuyên đào tạo về các ngành nông nghiệp, có lịch sử thành lập lâu đời đứng thứ 3 tại đất nước này. Toạ lạc tại thành phố Chrischurch - thành phố lớn nhất ở hòn đảo phía Nam New Zealand, chỉ cách sân bay quốc tế 25 phút lái xe. 
Đây là một trong những trường đại học dẫn đầu về các lĩnh vực nghiên cứu. Bằng chứng các trụ sở của trường như: Cơ quan nghiên cứu Kinh tế Kinh doanh nông nghiệp (AERU), Trung tâm giải pháp điện toán (CfACS), Trung tâm giáo dục nghiên cứu du lịch giải trí (TRREC), Trung tâm Công nghệ bảo vệ sinh học quốc gia.... được quốc gia và quốc tế chọn làm trụ sở để nghiên cứu. 
Ÿ Đại Học Canterbury
Được thành lập vào năm 1873, trường ĐH Canterbury có 7 chuyên ngành: Nghệ thuật, Thương mại, Cơ khí xây dựng, Luật, Âm nhạc và Mỹ thuật, Lâm nghiệp và Khoa học. Hiện tại trường đón nhận hơn 1.000 sinh viên quốc tế đến từ 60 quốc gia ghi tên đăng ký học các chương trình của trường.
Đại Học Canterbury cấp bằng trong các ngành xã hội (Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn), Thương Mại (Kinh Doanh và Kinh Tế), Giáo Dục, Kỹ Sư, Mỹ Thuật, Lâm Nghiệp, Luật, Âm Nhạc, Khoa Học, Công Tác Xã Hội, Liệu Pháp Tiếng Nói và Ngôn Ngữ, Huấn Luyện Viên Thể Thao, Dạy và Học.
Trường có tổ chức các khóa đại học và sau đại học đến đào tạo Thạc sỹ và Tiến sỹ trong tất cả các ngành học. Chương trình đào tạo xuất sắc nên Đại học Canterbury tạo được uy tín quốc tế về chất lượng chuyên ngành. Học phí và chi phí sinh hoạt có tính cạnh tranh trên toàn cầu.
- Báo cáo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) cho biết thế mạnh của nền giáo dục New Zealand đứng trong ‘top’ 10 quốc gia có tỉ lệ cao nhất về số người có các bằng cấp sau đại học. New Zealand là một điểm đến tốt cho sinh viên quốc tế. Báo cáo của OECD đưa ra những điểm chính năm 2011 như sau:
·   New Zealand được xếp hạng 4 về tỉ lệ sinh viên quốc tế ở bậc đại học
·   New Zealand có tỉ lệ sinh viên quốc tế cao nhất ở bậc sau đại học (Diplma-level).
·   New Zealand được xếp hạng 3 về số lượng sinh viên quốc tế ở bậc tiến sĩ. Mức độ sinh viên quốc tế đạt tiến sĩ vẫn tiếp tục tăng lên đáng kể từ năm 2005
·   Newzealand được xếp hạng thứ 5 về trình độ của sinh viên quốc tế.
·   Báo cáo nêu rõ New Zealand lại một lần nữa đạt tiêu chuẩn đứng đầu thế giới về thành tích của học sinh, sinh viên. Và các điểm mạnh của hệ thống giáo dục ở đây là: mô hình được tin tưởng cao, đánh giá tốt chất lượng học tập, đáp ứng được nhu cầu đa dạng cho người học và cam kết đào tạo đi đôi với thực tiễn, thực hành. 
·   Báo cáo cũng chỉ ra một số điểm mạnh đáng lưu tâm khác như  tiêu chuẩn giáo viên và các quy trình thẩm định, mức độ tin cậy của công chúng dành cho giáo viên, khả năng tự trị và tự đánh giá cao.

+ Xếp hạng theo ngành:
New Zealand là một trong những điểm đến thú vị bởi khí hậu ôn hòa, mức sống cao, người dân thân thiện. Giáo dục tại đất nước xinh đẹp này được công nhận trên toàn thế giới về bằng cấp và chất lượng đào tạo. Trong đó, đáng chú ý là các lĩnh vực tài chính kế toán, dược, tâm lý học, giáo dục... Thế mạnh nổi bật của các trường đại học New Zealand thể hiện trên bảng xếp hạng theo môn học của QS World University Rankings, dựa vào 29 môn học khi so sánh giữa 600 trường đại học trên 27 quốc gia toàn thế giới. Đây là cuộc khảo sát quy mô từng được tiến hành, lấy ý kiến của 50.000 học giả và chủ doanh nghiệp. 
New Zealand có 6 trường đại học nằm trong top 200 với ít nhất một môn học. Cách thức tiến hành khảo sát trên 29 môn học này dựa vào uy tín giảng dạy, giảng viên và số lượng trích dẫn trong mỗi bài luận văn. Đại học Victoria Wellington được xếp hạng cao nhất về môn luật (hạng 23). Auckland là đại học nổi bật của New Zealand vì có mặt trong hầu hết các môn học. Đại học Otago, Massey, Canterbury và Waikato cũng nằm trong số các trường có thành tích cao trên bảng xếp hạng của QS năm 2012.

Các trường đại học New Zealand nằm trong top 50
Xếp hạng
năm 2012
Lĩnh vực
Trường
23
Luật
Victoria University of Wellington
32
Tâm lý học
The University of Auckland
34
Luật
37
Giáo dục
39
Tài chính kế toán
39
Tâm ký học
University of Otago
40
Dược
The University of Auckland
48
Địa lý
50
Giáo dục
Massey University
 Ben Sowtwer - trưởng phòng nghiên cứu tại QS, cho biết: "Số liệu cập nhật của OECD cho thấy tỷ lệ sinh viên quốc tế tăng 10% và khu vực phân bố của các trường đại học được lọt vào bảng xếp hạng cũng mở rộng hơn, tạo nhiều điều kiện cho sinh viên được tiếp cận với nền giáo dụng chất lượng. Các trường đại học New Zealand với nhiều môn học được quốc tế đánh giá cao. Thứ hạng đó cho thấy quốc gia này đang dẫn đầu thế giới trong các lĩnh vực đào tạo có liên quan".

b.2. Chất lượng của các chứng chỉ, văn bằng
- Giáo dục bậc tiểu học và trung học tại New Zealand: Từ năm 2002 đến nay, “Chứng chỉ Toàn quốc về Thành tựu Giáo dục” (NCEA) đóng vai trò là văn bằng trung học chính thức của New Zealand. Học sinh có thể có được chứng chỉ này ở 3 cấp độ khác nhau: cấp độ 1, cấp độ 2 và cấp độ 3, sau khi hoàn tất một số học phần nhất định trong số khá nhiều khóa học và môn học. Vì Hệ thống văn bằng quốc gia (National Qualifications Framework - NQF) được chấm điểm quốc tế nên NCEA sẽ được công nhận ở nước ngoài.

Đối với phần lớn học sinh, 3 cấp độ này tương ứng 3 năm cuối của trường trung học (từ năm 11-13). Để nhận được NCEA, học sinh cần phải có đủ 80 điểm trong “Khuôn khổ Sát hạnh Quốc gia“, 60 điểm cho mức chứng chỉ và 20 điểm cho các mức độ khác. Ngoài ra, từ năm 2004, chính phủ New Zealand đã thiết lập kỳ thi sát hạch Học bổng New Zealand (New Zealand Scholarhip). Kỳ thi này để dành công nhận các học viên có thành tích học tập xuất sắc (phần lớn là các học sinh học năm thứ 13).

- Chứng chỉ NCEA có thể so sánh với:
. Chứng chỉ Phổ cập Giáo dục Trung học Anh Quốc
. Lớp 10 tại Canada hay Hoa Kỳ
. Chứng chỉ lớp 10 tại một số tiểu bang của Úc, chứng chỉ phổ thông, chứng chỉ trung học cơ sở và chứng chỉ học phần.
- Chứng chỉ phổ thông trung học, bằng Học bổng New Zealand và NCEA cấp độ 3 có thể so sánh với:
. Chứng chỉ A level của Anh Quốc
. Chứng chỉ lớp 12 tại một số tiểu ban của Úc, ví dụ: Chứng chỉ Phổ thông Trung học tại bang New South Wales

c. Cơ sở vật chất và phương pháp giảng dạy tiến bộ
- Hệ thống giáo dục New Zealand được dựa trên hệ thống giáo dục chất lượng cao của Anh. Với trường học được trang bị cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên ngang tầm với các quốc gia hàng đầu trên thế giới.
- Với truyền thống trẻ trung và phóng khoáng, New Zealand đã học hỏi để tự lực cánh sinh và vượt mọi khó khăn theo con đường riêng của mình trên thế giới. Điều đó được phản ánh vào phương pháp giảng dạy. Giáo viên luôn khuyến khích sinh viên phát triển ý tưởng và đề ra các giải pháp thông minh không nặng về lý thuyết và không sử dụng phương pháp học vẹt. Chính kiểu tư duy mới mẻ này đã dẫn đến sự thịnh vượng cho các doanh nghiệp và các cộng đồng trên thế giới.
- Các trường Trung học tại New Zealand đều có chương trình Anh ngữ cho du học sinh. Du học sinh được khuyến khích lựa chọn theo học các trường được đánh giá bởi Chính phủ. Các khóa học này đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế.
- New Zealand có diện tích gần bằng Nhật Bản nhưng chỉ có khoảng 4 triệu dân. Điều này có nghĩa du học sinh quốc tế sẽ có cơ hội sống trong những thành phố nhỏ hơn, lớp học với sĩ số ít hơn và một cuộc sống cũng thư thả hơn. Mặt khác, sinh viên quốc tế tại đây sẽ không cảm thấy bị lạc lõng vì họ sẽ nhận được sự quan tâm từ giáo viên và trợ giảng nhiều hơn.

d. Thu hút du học sinh:

Trong những năm gần đây, số lượng sinh viên (SV) quốc tế chọn New Zealand làm nơi học tập đã phát triển nhanh chóng. Mỗi năm có khoảng 80.000 sinh viên quốc tế đến học tập và nghiên cứu tại đây. New Zealand có các trường Đại học (ĐH) chuyên nghiệp, đào tạo các chương trình học có chất lượng cao và bằng cấp tại các trường này được công nhận trên toàn thế giới. Chương trình ĐH tại New Zealand có đầy đủ các môn học và ngành học về nghệ thuật, thương mại và khoa học. Với một nền giáo dục Đại học chất lượng cao. Nhiều sinh viên tốt nghiệp ĐH tại New Zealand đã đạt được những thành tựu lớn lao tầm quốc tế. Nhiều sinh viên quốc tế từ các nước đang phát triển như châu Á sau khi học tập và nghiên cứu tại trường đại học New Zealand, đã trở thành những quản trị viên cao cấp, trong đó có cả các bộ trưởng của các quốc gia.
- Thống kê của tổ chức giáo dục New Zealand mới đây cho biết, tính đến năm 2009, lượng học sinh, sinh viên quốc tế đến nước này học tập tăng lên ở mức đáng kể trong vòng sáu năm qua. Cụ thể: 93.500 du học sinh đến New Zealand năm 2009, tăng 6% so với năm 2008 (88.570 người), nhưng vẫn thấp hơn so với mức kỷ lục năm 2003 (12.1190 người). Robert Stevens, người điều hành của tổ chức giáo dục New Zealand, cho hay, nhiều người có khuynh hướng duy trì việc học tập nghiên cứu lâu hơn hoặc theo học các lớp đại học, du học …. trong thời buổi kinh tế khó khăn như hiện nay.
- Năm 2008, hơn 2/3 du học sinh tới New Zealand theo học chuyên ngành Tiếng Anh, 19% học về thương mại điện tử và 3,8% tham gia các lớp học về du lịch, y tế.
- Du học sinh Trung Quốc chiếm số lượng đông nhất tại New Zealand với 20.780 người, tiếp đó là Hàn Quốc (15.905 người), Nhật Bản (9.697), Ấn Độ (8.673).

- Sinh viên quốc tế du học ở New Zealand tăng mạnh mang lại thành tựu lớn đối với lĩnh vực kinh tế và giáo dục tại nước này. Mỗi năm, nền giáo dục quốc tế đóng góp 2 tỷ USD cho nền kinh tế New Zealand và việc tiếp tục phát triển giáo dục quốc tế mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho nền kinh tế, đồng thời tạo cơ hội phát triển hơn nữa cho các cơ sở giáo dục tại nước này.

à Sự gia tăng này khẳng định nhu cầu đối với nền giáo dục New Zealand đang ở mức cao, đồng thời các con số này cũng phản ánh hiệu quả của những hoạt động trong lĩnh vực giáo dục của chính phủ New Zealand, nhằm đưa nước này trở thành một quốc gia có nền giáo dục hàng đầu thế giới.
  
NGUYÊN NHÂN THÀNH CÔNG CỦA NỀN GIÁO DỤC NEW ZEALAND
a. Chất lượng giáo dục được đảm bảo
Hệ thống giáo dục New Zealand được dựa trên hệ thống giáo dục chất lượng cao của Anh. Trường học tại New Zealand được trang bị cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên ngang tầm với các quốc gia hàng đầu trên thế giới. Do đó bằng cấp tại New Zealand được công nhận trên toàn thế giới.
- New Zealand Qualifications Authority (NZQA: Cơ quan Quản lý Giáo dục New Zealand) luôn đảm bảo về chất lượng giáo dục của New Zealand, cả học sinh trong nước lẫn học sinh quốc tế đều sẽ có được sự tự tin khi đến học tập tại New Zealand. Các khóa học ở New Zealand đều được kiểm tra chất lượng bới NZQA hoặc các cơ quan được sự chấp thuận của Chính phủ. Sinh viên tới học tập tại New Zealand đều được đảm bảo sẽ được tiếp cận với nền giáo dục tiên tiến, các bằng cấp đạt chuẩn quốc tế.
Tất cả các bằng cấp/chứng chỉ do các cơ sở giáo dục ở New Zealand cấp đều tương xứng với thời gian và chi phí của người học. Sẽ là trái phép nếu các thuật ngữ "đại học", bằng cấp", bách khoa" hay "chất lượng quốc gia" được sử dụng ở đây mà chưa được tổ chức chính quyền nào của New Zealand chấp thuận.
Các khóa học của các cơ sở giáo dục tư thục đều được đảm bảo chất lượng cũng như đã được đăng ký với NZQA.
- Văn bằng tốt nghiệp trung học ở New Zealand được gọi là NCEA (National Certificate in Educational Achievement - chứng chỉ quốc gia về thành tích học tập). Một số trường trung học còn cung cấp thêm các bằng cấp quốc tế như Cambridge International Exams and International Baccalaureate ( Kỳ thi quốc tế Cambridge và Kỳ thi tú tài quốc tế).
b. Đa dạng hình thức:
Dựa trên hệ thống giáo dục có uy tín của Anh, các trường học New Zealand cung cấp một nền giáo dục chất lượng cao nhằm khuyến khích học sinh có một tư duy tốt và chuẩn bị cho các em tiếp tục tham gia vào việc nghiên cứu và hoạt động trên thế giới.
Có rất nhiều lựa chọn cho các bậc sơ cấp, trung cấp và trung học gồm các hệ thống nhà trường dành riêng cho nữ sinh hoặc nam sinh và những trường dạy chung cả nam sinh và nữ sinh, trường công trường tư và một số trường có mối quan hệ với tôn giáo. Điều này cho phép học sinh, sinh viên và du học sinh chọn trường học tốt nhất theo nhu cầu của mình, với chất lượng giảng dạy ở mức cao.
- Giáo dục Trung học:
Hệ thống giáo dục Trung học của New Zealand rất tương thích với hệ thống giáo dục trung học quốc tế. Chứng chỉ Trung học phổ thông của New Zealand có thể so sánh với những chứng chỉ như A level của Anh quốc, hay chứng chỉ Trung học phổ thông ở một số bang của Úc. Tiếng Anh được giảng dạy như là ngôn ngữ chính trong hầu hết các trường ở New Zealand.
Học sinh ở NZL có giáo dục bắt buộc (năm 9-13) đến khoảng 13 tuổi. Họ có thể chọn học tại các trường công hoặc trường tư. Các trường Trung học đều có điều kiện nhập học, môn học và các tiêu chuẩn đào tạo dựa trên chương trình giảng dạy của quốc gia. Chương trình giảng dạy được xây dựng trên cơ sở chuẩn bị cho học sinh làm quen với sự đa dạng về nguồn thông tin. Học sinh được khuyến khích phát biểu trong lớp để bày tỏ ý kiến và giáo viên sẽ thúc đẩy việc thảo luận. Các môn học đều có các bài tập về nghiên cứu và trình bày trước lớp giúp học sinh phát triển tự tin, khả năng tư duy độc lập. Đối với học sinh quốc tế ngoài việc được quan tâm trong lớp học, mỗi sinh viên còn được quan tâm chú ý trong giờ học. New Zealand là quốc gia đầu tiên thông qua những điều khoản nghiêm ngặt về việc đặt ra những các tiêu chuẩn cho sự quan tâm chăm sóc đối với du học sinh nước ngoài, cả khi trong và ngoài lớp học.
Học sinh có thể lựa chọn các môn học rất phong phú đa dạng tại 400 trường trung học trong cả nước. Trong 2 năm đầu của trung học (lớp 9 và 10) tất cả các học sinh học Anh ngữ, toán, khoa học và công nghệ, các môn học xã hội, nghệ thuật, giáo dục thể chất, âm nhạc và giáo dục sức khỏe. Những môn học tùy chọn trong 2 năm đầu rất đa dạng chẳng hạn như kinh tế, lịch sử, địa lý, điện tử, may, kịch, báo chí, Pháp ngữ, Nhật ngữ và tiếng Maori. Các ngôn ngữ khác ít phổ biến cũng được học bao gồm Indonesian, Latin, Đức, Trung quốc và Samoan. Trong 3 năm cuối trung học có rất nhiều môn học để chọn, một số trong đó rất thực tiễn như nhiếp ảnh, trồng trọt. Lớp 12 và 13 - 2 năm cuối có thể thích hợp với du học sinh nào muốn học tiếp sau phổ thông tại New Zealand. Nhiều sinh viên quốc tế sang New Zealand hoàn thành năm cuối của bậc trung học (ví dụ như năm 12 & 13) ở New Zealand trước khi tiếp tục theo học đại học.
Tại New Zealand, sinh viên có rất nhiều lựa chọn về các ngành học và các trường đại học. Các trường đại học, các viện Công nghệ và Bách khoa (ITPs), các tổ chức đào tạo tư nhân (PTEs) và các tổ chức đào tạo theo ngành (ITOs) đem đến cho sinh viên những sự lựa chọn đa dạng nhất. Bên cạnh các lựa chọn về loại hình các trường đại học mà bạn có thể theo học, sinh viên cũng có các lựa chọn về hình thức học tập mà họ mong muốn. Hiện có rất nhiều các khóa học khác nhau tại 20 viện công nghệ và bách khoa công lập (ITPs), ngoài ra sinh viên cũng có các lựa chọn về dạy nghề cũng như các lựa chọn học chính quy và tại chức.
- Trường đại học:
Có 8 trường đại học công lập tại New Zealand và tất cả đều được kính nể trên toàn thế giới về giảng dạy và nghiên cứu. Giáo dục đại học mở cho bất cứ ai hội đủ yêu cầu văn bằng đầu vào qui định bởi Cơ quan văn bằng New Zealand (New Zealand Qualifications Authority - NZQA). Tuy nhiên, các trường đại học thường có yêu cầu đầu vào cao hơn cho một số khóa học cụ thể chẳng hạn như Y khoa, nha khoa. Sinh viên có thể học chương trình cử nhân, thac sỹ và tiến sỹ cũng như cao đẳng và một số cấp độ khác.  Có một bằng cấp của New Zealand có thể là một đòn bẩy cho việc học tại các quốc gia khác.
Các loại hình Đại học tại New Zealand: Đại học, Kỹ thuật (Polytechnics) và Viện Công nghệ, Viện giáo dục và Đào tạo tư nhân, Các trường Đại học Sư phạm. Mỗi trường Đại học có khoảng 20% sinh viên quốc tế. Các truờng Đại học tự phát triển các chuyên ngành cho trường: Nghệ thuật, Thương mại, Cơ khí, Công nghệ thông tin, Khoa học máy tính, Y khoa, Luật…
Tất cả các truờng Đại học đều cung cấp: Chương trình Đại học 3 năm, Thạc sỹ 2 năm nếu học toàn thời gian và sẽ dài hơn nếu học bán thời gian. Học vị Tiến sĩ tối thiểu 3 năm toàn thời gian. Có nhiều chương trình lấy bằng Diploma của Đại học và Sau Đại học. Có chương trình Cử nhân danh dự thông thường học thêm 01 năm sau khi hoàn thành chuơng trình Cử nhân
- Các trường Cao đẳng và Viện Công nghệ:
Cung cấp chương trình giáo dục và đào tạo từ các khoá học giới thiệu cho đến các khoá học lấy bằng Đại học. Các truờng này có phương tiện học tập công nghệ hiện đại, lớp học nhỏ, môi trường học tập thoải mái và có mối quan hệ lâu dài với các cơ sở đào tạo nước ngoài. Mối liên kết chặt chẽ với các ngành Công nghiệp của New Zealand, các nhà tuyển dụng và cơ quan chính phủ giúp cho các khoá học tại trường chuyển tiếp được hết các nội dung về kiến thức và kỹ năng thực hành, giúp học sinh sẵn sàng ngay cho công việc ngay sau khi tốt nghiệp.
Sinh viên có các lựa chọn phong phú và phổ biến nhất là học tập tại một trong 25 trường công nghệ được chính phủ tài trợ. Họ cung cấp nhiều chương trình được cả hai mặt là học tập kiến thức và học nghề. Sinh viên có thể chọn một khóa học ngắn hạn để học các kỹ năng cụ thể, hoặc học các khóa học dài để có được bằng cao đẳng hoặc bằng đại học.
-  Các trường tư nhân: Ở NZL, ngày càng có nhiều các trường đại học tư nhân.  Họ cung cấp một loạt các chương trình bao gồm như: các chứng chỉ chuyên môn, các văn bằng cao đẳng, đại học trong phạm vi lớn về các ngành nghề như: nghệ thuật, các ngành công nghiệp khách sạn, nghiên cứu máy tính, thư kí, quản lý, du lịch sinh thái và nhiều ngành nghề khác. 
- Các tổ chức huấn luyện công nghiệp: Các tổ chức huấn luyện công nghiệp giảng dạy nhắm đến việc hướng nghiệp và bằng cấp cho các ngành công nghiệp chuyên biệt.
- Các trường tư thục: có hơn 800 học viện huấn luyện tư thục
Bên cạnh đó, cũng có các trường tư thục được xây dựng và điều hành theo tín ngưỡng và văn hóa bởi các cộng đồng. Có nhiều trường tư thục phần lớn điều hành bởi các nhà thờ. Các nhà thờ được phép giảng dạy một số giá trị tín ngưỡng cụ thể nhưng phải phù hợp với chương trình quốc gia.  
- Các kỳ nhập học: Có 4 kỳ nhập học trong một năm với tối thiểu 2 tuần nghỉ giữa các kỳ và 6 tuần nếu là mùa hè. 
- Kỳ 1: tháng một đến tháng tư
 - Kỳ 2: tháng tư đến tháng bảy
- Kỳ 3: tháng bảy đến tháng chín
- Kỳ 4: tháng 10 đến tháng 12
c. Giáo viên có chất lượng
New Zealand được công nhận quốc tế về nền giáo dục tuyệt hảo và là nơi cung cấp các giáo viên chất lượng. Có 06 trường sư phạm do chính phủ tài trợ, 02 trường hoạt động trong phạm vi trường đại học và các trường khác hợp tác với các đại học địa phương.
d. Chính sách giáo dục
- Chính phủ tài trợ mạnh tay cho giáo dục.
- Các mô hình phù hợp với văn hóa ở bậc mẫu giáo.
- Công bằng trong việc lựa chọn sinh viên vào bậc đại học, phù hợp về mặt chi phí; và bằng cấp được đảm bảo về chất lượng, có giá trị trên tòan thế giới. Sự linh họat trong việc học sinh lựa chọn lối đi của riêng mình cũng là một đặc điểm quan trọng.
- New Zealand luôn khuyến khích để học sinh linh hoạt lựa chọn lối đi của riêng mình, giúp cho việc học tập và phát triển tương lai của họ không bị giới hạn. Mặc dù có rất nhiều mô hình cơ sở đào tạo khác nhau nhưng các chính sách quốc gia và chính sách quản lý chất lượng của giáo dục tại New Zealand luôn đảm bảo tính kế thừa và nhất quán trong toàn bộ hệ thống.
- New Zealand có một hệ thống giáo dục hoàn hảo và văn bằng được công nhận vào loại tốt nhất trên thế giới. Hệ thống trường công lập hoàn toàn "miễn phí và bắt buộc" từ hơn 100 năm nay. Giáo dục miễn phí ở bậc tiểu học và trung học cho công dân New Zealand và người định cư dài hạn tại New Zealand.
Các trường tiểu học: Luật pháp New Zealand yêu cầu tất cả trẻ em từ 6 tuổi trở lên phải được đến trường. Đa số bắt đầu sớm khi được 5 tuổi. Trong 3 năm đầu, trẻ được học trong những lớp học nhỏ tuổi, lên lớp sau mỗi năm. Sau khi hoàn tất đa số các em sẽ học tiếp 5 năm ở bậc tiểu học. Khi được 12 hay 13 tuổi các em sẽ vào chương trình trung học
Các trường trung học: Học sinh trung học phải qua 5 cấp độ và học cho đến 16 tuổi. Giáo dục trung học miễn phí có thể được cung cấp cho con cái của công dân New Zealand cho đến 19 tuổi.
- Mức sống và học phí cân bằng với các nước khác: New Zealand có mức học phí hợp lý, thấp hơn các nước Tây Âu khác và sinh hoạt phí cũng hợp lý hơn. Tổng chi phí chỉ xấp xỉ 1/2 chi phí học tại Hoa Kỳ. Khi đồng Đô-la Úc và Mỹ càng ngày càng tăng cao thì Đô-la New Zealand vẫn rất ổn định trong suốt nhiều năm. Điều đó giúp sinh viên ước tính được chi phí học tập của mình trong suốt quá trình học mà không sợ sự chênh lệch quá nhiều so với dự tính ban đầu.
Thêm vào đó, học phí tại các trường New Zealand thường không tăng quá cao hàng năm khiến New Zealand ngày càng trở thành nơi cung cấp nền giáo dục chất lượng cao với mức chi phí thấp.
Học phí phổ thông chỉ từ 10,000- 17000 NZ$/ năm học, cao đẳng chỉ từ 5,000-14,000, đại học từ 10,000- 28,000 trung bình.
- Chính sách đối với du học sinh
+ Một trong những ưu điểm nổi bật khiến New Zealand trở thành điểm đến hấp dẫn của du học sinh quốc tế đó là chi phí học tập, sinh hoạt cạnh tranh trong khi chất lượng đào tạo không hề thua kém những quốc gia khác. Các khoá học tại New Zealand được thiết kế đa dạng, phù hợp với nhu cầu người học. Bên cạnh đó, sinh viên quốc tế tại New Zealand còn nhận được sự hỗ trợ nhiệt tình và hiệu quả từ chính phủ, nhà trường cũng như cộng đồng.
+ Chi phí sinh hoạt và chỗ ở
· Chi phí sinh hoạt và chỗ ở cho sinh viên quốc tế ở New Zealand khoảng từ: NZ $ 9,000 đến $ 10,000 /năm. Chi phí này bao gồm chỗ ở, thực phẩm, phương tiện đi lại, tài liệu học và một số ít hoạt động giải trí.
· Về chỗ ở:
Một số trường trung học cơ sở cung cấp các khu kí túc cho học sinh, trong khi một số sinh viên quốc tế khác lại được sắp xếp ở cùng với người bản địa. Thông thường các trường đại học và các trường kỹ thuật sẽ cung cấp chỗ ở cho sinh viên tại khuôn viên của trường. Sống tại khuôn viên của trường, sinh viên thường hay tìm trợ giúp từ các dịch vụ hỗ trợ sinh viên để thu xếp chỗ ở  hoặc đưa ra lời khuyên về việc tìm kiếm căn hộ phù hợp.
Đa số học sinh đều sống với gia đình người bản địa, những gia đình này xem các học sinh như là thành viên trong gia đình của họ trong suốt thời gian các em theo học ở New Zealand. Chi phí từ 80 - 100 USD/tuần (gồm cả tiền ăn hai buổi sáng và một buổi tối mỗi ngày).
Ngoài ra sinh viên còn có những lựa chọn khác như tự thuê nhà ở theo nhóm (khoảng 97-250 NZ$/tuần) hay ở trong kí túc xá với đầy đủ tiện nghi (khoảng 145-200 NZ$/tuần tương đương 2,5-3,5 triệu VND)
+ Bộ Giáo dục New Zealand đã xây dựng Bộ quy tắc ứng xử của giáo viên đối với sinh viên quốc tế. New Zealand là quốc gia đầu tiên đưa ra những tiêu chuẩn về việc chăm lo và ứng xử với sinh viên và du học sinh quốc tế. Điều lệ này bao gồm các yêu cầu:
. Bảo đảm thông tin được cung cấp cho học sinh quốc tế là chính xác, cập nhật và đầy đủ.
. Bảo đảm việc tuyển sinh học sinh quốc tế được tiến hành có trách nhiệm và đạo đức.
. Các yêu cầu đặc biệt về nhà ở và quyền lợi của sinh viên quốc tế dưới 18 tuổi.
. Bảo đảm các dịch vụ hỗ trợ được cung cấp cho học sinh quốc tế.
. Bảo đảm học sinh quốc tế được tiến hành việc khiếu nại một cách công bằng và hợp lý.
. Cung cấp các tiêu chuẩn tối thiểu về việc tuyển sinh cho các văn phòng du học và văn phòng nhà ở có liên quan đến học sinh quốc tế.
Điều này thể hiện sự quan tâm của các trường đại học và tổ chức giáo dục của nước này đối với quyền lợi của sinh viên và du học sinh quốc tế. Quy tắc hoạt động này đề ra tiêu chuẩn về phúc lợi của sinh viên để đảm bảo nhà trường đưa ra những lời khuyên phù hợp với nhu cầu của sinh viên quốc tế. Tất cả các nhà cung cấp giáo dục muốn đăng ký chứng nhận này đều phải đảm bảo thực hiện đúng những điều kiện mà bản chứng nhận đưa ra. Quy tắc này áp dụng vào việc chăm sóc tinh thần và cung cấp thông tin cho sinh viên nhưng không bao gồm tiêu chuẩn giáo dục.
+ Hơn nữa các trường học ở New Zealand luôn tạo điều kiện cho sinh viên quốc tế theo du học tại đất nước họ, bằng chứng thực tế là đã có nhiều suất học bổng trị giá lên đến 50% được cấp hàng năm từ các trường Đại học Victoria, Đại học Waikato, Học viện Ntec, Học viện Whiteria và nhiều trường trung học như Onlows college, Avondale college, Kaikorai Valley College….
+ Xin thị thực dễ dàng, tỉ lệ đạt Visa cao
Theo như thông tin được cập nhật mới nhất từ Văn phòng visa của Lãnh Sự Quán New Zealand tại thành phố Hồ Chí Minh, 85% hồ sơ xin visa du học sinh đã được cấp visa. Du học sinh sẽ không quá khó khăn khi chứng minh tài chính hoặc yêu cầu bằng cấp tiếng Anh như xin visa Úc, hay phải phỏng vấn theo kiểu “hên xui” như của Lãnh sự quán Mỹ mà còn phải tốn nhiều chi phí khi tiến hành xin visa. Điều này cho thấy chính phủ New Zealand luôn luôn mở cửa đón chào sinh viên quốc tế đến New Zealand đề nhận được nền giáo dục chất lượng cao tại đây.
+ Không gặp trở ngại trong quá trình xét hồ sơ
·   Không cần IELTS.
·   Không hạn chế tuổi và quá trình học tập.
·   Chỉ thu phí khi có Visa.
+ Cùng được hưởng quốc tịch chế độ phúc lợi của 2 nước New Zealand và Australia.
New Zealand có hệ thống bảo đảm phúc lợi xã hội tốt, bản thân những người được quyền cư trú vĩnh viễn có thể xin quyền cư trú vĩnh viễn của cha mẹ, vợ chồng và các con. Ngoài ra, các con có thể được hưởng nền giáo dục miễn phí và các phúc lợi khác do chính phủ cung cấp. Vì New Zealand và Australia có quan hệ đặc thù truyền thống, các công dân có thể tự do đi vào quốc gia của nhau để làm việc. Sau khi cư trú đủ hai năm, có thể nhận được quốc tịch đủ hai nước.
+ Cơ hội ở lại làm việc tại New Zealand
Không như nhiều quốc gia khác, sinh viên dễ dàng tìm được việc làm thêm tại New Zealand để trang trải một phần chi phí sinh hoạt và học hỏi nhiều hơn từ những trải nghiệm quý giá này. Sinh viên có thể làm thêm 20 giờ/ tuần, mỗi giờ thu nhập trung bình là 11 NZ$ , không phải nộp thuế và không giới hạn thời gian trong kỳ nghỉ.
Ngoài việc được làm bán thời gian 20 giờ/tuần trong suốt thời gian học, sinh viên sau khi hoàn tất chương trình sẽ có thể ở lại làm việc tại New Zealand trong vòng 1 năm và có cơ hội định cư tại New Zealand theo chính sách Nhập cư có tay nghề tại New Zealand. Chính phủ NZ cho phép du học sinh ở lại làm việc từ 1-3 năm sau khi học xong. Đa số các sinh viên đều tranh thủ cơ hội này để tìm các việc làm dài hạn hoặc ngắn hạn, học hỏi kinh nghiệm, tích lũy kiến thức…và có thu nhập tốt.
e. Môi trường sống tuyệt vời
- Đất nước thanh bình
Global Peace Index năm 2011 xếp New Zealand là quốc gia bình yên đứng thứ hai trên thế giới. Nơi đây có nền chính trị ổn định, có thể coi là một trong những nơi yên bình và an toàn nhất trên thế giới.
New Zealand có diện tích gần bằng Nhật Bản hoặc Anh Quốc nhưng chỉ có khoảng 4 triệu dân. Điều này làm cho New Zealand càng trở nên hấp dẫn hơn với sinh viên quốc tế vì bạn sẽ có cơ hội sống trong những thành phố nhỏ hơn, lớp học với sĩ số ít hơn và một cuộc sống thư thả hơn. Sinh viên quốc tế tại đây sẽ không cảm thấy bị lạc lỏng và sẽ nhận được sự quan tâm từ giáo viên và trợ giảng nhiều hơn, người dân New Zealand nhiệt tình, thân thiện và hiếu khách tạo điều kiện cho bạn nhận được những điều tốt nhất trong thời gian du học của mình.
Được thiên nhiên ưu đãi, đất nước New Zealand có rất nhiều núi non, ao hồ, rừng cây và những lối đi ven biển đầy ấn tượng sẽ mang lại cho sinh viên những chuyến dã ngoại không thể nào quên. Với một môi trường còn nguyên sơ, thường diễn ra nhiều chuyến phiêu lưu với nhiều cấp độ từ nhẹ nhàng cho đến những cuộc phiêu lưu đầy thử thách với giá phải chăng và thường không phải đi xa.
- Thân thiện:
 Người New Zealand là mẫu người thân thiện, dễ dàng đón nhận những nền văn hóa khác nhau. Khi đến đây du học, các em cũng sẽ bắt đầu những tình bạn lâu dài. Ngoài sự đón tiếp nồng nhiệt sinh viên sẽ cảm nhận đây là một nơi an toàn và thực sự bảo đảm.
New Zealand là một quốc gia đa sắc tộc, trong đó chủ yếu là người gốc Anh. Cư dân New Zealand hết sức thân thiện, cởi mở và mến khách.
Sinh viên Việt Nam nói riêng và du học sinh quốc tế nói chung luôn được chào đón bởi những tình cảm nồng ấm của cư dân bản địa và được tạo điều kiện tốt nhất để nhanh chóng thích nghi với cuộc sống và công việc học tập tại nơi đây.
- Năng động, sáng tạo:
Sinh viên đến đây sẽ trải nghiệm một lối sống hiện đại tinh vi và chất lượng cao, nơi lưu trú có giá phải chăng ở gần các trường mà các em đã chọn. Tại các thành phố chính của New Zealand, sinh viên cũng thưởng thức sự đa dạng phong phú từ các hoạt động vui chơi giải trí ban đêm, các quán cà phê, phim ảnh và có thể mua sắm thật thuận tiện.   
Với truyền thống trẻ trung và phóng khoáng, New Zealand đã học hỏi để tự lực cánh sinh và vượt mọi khó khăn theo con đường riêng của mình trên thế giới. Luôn khuyến khích sinh viên phát triển ý tưởng và đề ra các giải pháp thông minh không nặng về lý thuyết và không sử dụng phương pháp học vẹt. Về cơ bản, kiểu tư duy mới mẻ này đã dẫn đến sự thịnh vượng cho các doanh nghiệp và các cộng đồng trên thế giới. 
- Liên thông với thế giới:
Được ở thế thuận lợi, người New Zealand trở thành nhà quan sát luôn theo dõi kỹ các xu hướng phát triển trên thế giới và các nền khoa học kỹ thuật mới. Với các du học sinh muốn nắm vững khoa học kỹ thuật mới, cũng như đón đầu xu hướng phát triển của thế giới thì New Zealand đáng là điểm đến của bạn.

 

f. Chất lượng cuộc sống

Chất lượng cuộc sống tại New Zealand cao có thể so sánh tương đương với mức sống tại Australia, Canada, Nhật, Thụy Điển, Anh và Mỹ. Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông hiện đại, thuận lợi cho nhu cầu đi lại người dân. Các chương trình phúc lợi và an sinh xã hội cao.

h. Cơ hội nâng cao trình độ Anh ngữ
- New Zealand là một quốc gia nói tiếng Anh với truyền thống lâu đời về giảng dạy Tiếng Anh. Giọng nói của người New Zealand dễ hiểu và theo tiêu chuẩn tiếng Anh của người Anh. Tiêu chuẩn đào tạo tiếng Anh cho người không sử dụng tiếng Anh tại New Zealand rất cao và được đánh giá cao trên thế giới. Có rất nhiều khoá học giúp học sinh tăng cường kỹ năng tiếng Anh trước khi vào học chính khoá tại các trường Đại học hay Trung học.
-  Có rất nhiều trung tâm Anh ngữ là phân khoa của các trường Đại học hay Kỹ thuật và hơn 50 trường Anh Ngữ tư thục khác. Các trường đều có đăng ký và giám sát chất lượng đào tạo với có quản lý văn bằng và chất lượng của New Zealand để bảo đảm duy trì chương trình giáo dục đào tạo cao cấp.
Tất cả các trương anh ngữ tư thục giảng dạy các khóa học đã được đăng ký và công nhận bởi Cơ quan văn bằng New Zealand (New Zealand Qualifications Authority). Một số trường đại học, trường bách khoa và cao đẳng cũng có trung tâm anh ngữ riêng của họ.
- Các trường anh ngữ này có các khóa học đa dạng cho mọi lứa tuổi bao gồm các hoạt động giúp đỡ cho sinh viên học tập dễ dàng hơn như tổ chức các cuộc dã ngoại, các chương trình học phong phú. Các khóa dã ngoại  cung cấp một lượng từ ngữ tiếng anh lớn và các hoạt động nhằm kích thích sự lựa chọn của các sinh viên. Ở đây còn có các khóa huấn luyện tiếng anh dành cho lĩnh vực kinh doanh và còn có các bài test tiếng anh để bạn chuẩn bị học TOEFL và IELTS. Hầu hết các trường đại học cũng cung cấp các lớp tiếng anh để đẩy mạnh quá trình học tập hoặc các khóa huấn luyện cơ bản.


III.  So sánh nền giáo dục New Zealand và Việt Nam và bài học kinh nghiệm
1. Bảng so sánh về điều kiện kinh tế, xã hội và lịch sự phát triển giáo dục:
NỘI DUNG
VIỆT NAM (*)
NEW ZEALAND
Diện tích
331.210 km2
268.680 km2
Địa hình
Quốc gia nhiệt đới với vùng đồi thấp, đồi núi, nhiều cao nguyên với những cánh đồng rừng rậm. Đất đai có thể sử dụng cho nông nghiệp chiếm chưa đến 20%. Đất nước bị chia thành vùng núi, đồng bằng sông Hồng phía Bắc và dãi Trường Sơn, Tây Nguyên, đồng bằng duyên hải miền trung, và đồng bằng sông Cửu Long ở phía Nam.
Phía nam Thái Bình Dương. Có hai đảo lớn và một dải đảo nhỏ. Có khí hậu ôn đới, mùa động ẩm và mùa hè khô. Có 04 thành phố lớn là Auckland, Hamilton, Christchurch và Dunedin
Dân số,
Phân bố dân số
91.519.289
Thứ 14 thế giới (2012)
73.1% nông thôn
26.9% thành thị
4.143.279
Thứ 193
Nét chính về lịch sử và giáo dục
Đến năm 905: bị Trung Quốc đô hộ
Đến giữa thế kỷ 19: thời kỳ phong kiến tự chủ. Nền giáo dục nho giáo ảnh hưởng từ Trung Quốc. Thành lập văn miếu quốc tử giám (1076) là trường ĐH đầu tiên
1858 – 1945: Thuộc địa Pháp. Giáo dục hiện đại Pháp là một sự nhảy vọt của giáo dục Việt Nam, đặt nền móng cho khoa học hiện đại.
1945 – 1975: Chiến tranh chống đế quốc Pháp, Mỹ. Tồn tại cùng lúc 2 nền giáo dục là Xô viết và Hoa Kỳ.
30/4/1975 độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Đất nước có nhiều đòi hỏi về CNH – HĐH, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh hội nhập. Do đó, đòi hỏi giáo dục cũng phải hội nhập với thế giới
1876: Cải cách hiến pháp
1877: thiết lập hệ thống giáo dục không tôn giáo. Tồn tại song song hệ thống các trường công lập không tôn giáo và hệ thống trường của giáo hội.
Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, thiết lập hệ thống chương trình, kiểm tra tiên tiến, nâng cao năng lực chuyên môn và tiền lương. Hệ thống giáo dục nghiêm túc, chọn lọc cao.
1914-1918: Vẫn tiếp tục thuộc Anh Quốc, phát triển và mở rộng giáo dục.
1930-1940: có nhiều cải cách quan trọng: chính sách bình đẳng và miễn phí
1939 – 1945: Theo Anh Quốc, tuyên chiến với Đức. Bắt đầu nghiên cứu giáo dục Mỹ
1964: Ban hành luật cải cách giáo dục.
Hiện tại có nhiều thành tựu về giáo dục, hàng đầu trên thế giới

Thống kê về số lượng, xếp hạng các trường ĐH - CĐ
400 trường ĐH - CĐ
8 trường ĐH công lập, 20 viện công nghệ
Có 03 trường Top 200 (Time Higher Education Supplement, 2005)
Có 9 chuyên ngành thuộc các trường ĐH đạt Top 50 ngành xuất sắc (QS World University Rankings, 2012)
(*) Theo tài liệu: “Giáo dục hội nhập quốc tế”, 2013, PGS.TS Phạm Lan Hương
2. Một số đổi mới đột phá và sự khẳng định về thương hiệu của nền giáo dục New Zealand:
2.1 Công khai các dữ liệu thứ cấp về thành tích
Một trong những sáng kiến hàng đầu tại các trường trung học ở New Zealand là phổ biến của các dữ liệu thứ cấp về thành tích của các trường học. Từ năm 2006 đến 2009, tỷ lệ các trường có học sinh trên 15 tuổi trong và công bố dữ liệu thành tích tăng 30%.
2.2 Đánh giá công bằng các giáo viên bậc tiểu học và THCS
Ở New Zealand công tác đánh giá giáo viên đã có những bước phát triển mạnh mẽ mang tính tổng hợp và toàn diện. Đánh giá bao gồm cả việc thu thập, phân tích, giải thích và sử dụng các thông tin mang tính khoa học về giáo viên nhằm mục tiêu hoàn thiện và tự hoàn thiện đội ngũ giáo viên.
Ý thức được vai trò quan trọng như vậy nên trong khoảng thời gian từ năm 2003 – 2011, New Zealand đã có sự thay đổi đáng kể trong đánh giá giáo viên bằng cách thực hiện đánh giá công bằng các hoạt động giáo viên đặc biệt có thể nhìn thấy sự thay đổi đó cho chương trình toán và khoa học lớp 8. Ngoài ra, còn có sự thay đổi đáng kể trong đánh giá đánh giá công bằng hoạt động của giáo viên học lớp 4.
2.3 Đánh giá từ bên ngoài về phòng học ở bậc tiểu học và THCS
Hoạt động của giáo viên ở các trường tiểu học và trung học cơ sở ở New Zealand thường xuyên được quan sát bởi các thanh tra hoặc người khác bên ngoài nhà trường. Từ năm 2003 đến 2011, New Zealand đã tăng 26% việc sử dụng kết quả đánh giá của các chuyên gia bên ngoài đối với cấp tiểu học để đánh giá các hoạt động của giáo viên. Trong cùng một thời kỳ, New Zealand đã tăng 12% việc sử dụng kết quả quan sát của chuyên gia cho các trường cấp THCS.


2.4 Cung cấp thông tin so sánh đến phụ huynh học sinh
Việc giữ liên lạc giữa nhà trường và phụ huynh học sinh là điều hết sức quan trọng và thông tin cần thiết cho việc liên lạc thường là kết quả học tập của học sinh. Không chỉ ở New Zealand mà hầu hết các nước đều thường xuyên thông tin cho các vị phụ huynh về kết quả học tập của con họ. Riêng ở New Zealand đối với những học sinh từ 15 tuổi trở lên, các trường không chỉ cung cấp thông tin về tình hình học tập của học sinh mà còn cung cấp thông tin tình hình học tập chung của các học sinh cùng lớp để phụ huynh có thể thấy được thứ hạng, tương quan thực lực học tập của con cái mình. Từ năm 2006 – 2009, New Zealand đã tăng 14% cho hoạt động này.
2.5 Sử dụng dữ liệu thành tích để đánh giá hiệu trưởng
Ở các trường học, hiệu trưởng có các nhiệm vụ sau:
-     Chỉ đạo việc xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, chiến lược và kế hoạch phát triển Nhà trường.
-     Quản lý các công tác chuyên môn về đào tạo, tổ chức chỉ đạo xây dựng và phê duyệt chương trình giáo dục, kế hoạch giảng dạy, chương trình và giáo trình môn học của trường và các hoạt động giảng dạy, học tập trong Trường.
-     Tổ chức và chỉ đạo công tác thực nghiệm, nghiên cứu khoa học, dịch vụ khoa học - công nghệ, hợp tác quốc tế về khoa học và đào tạo, liên kết với các cơ sở nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh thực hiện đào tạo gắn với nhu cầu sử dụng lao động và việc làm.
-     Quản lý cán bộ, viên chức. Thực hiện chế độ chính sách của Nhà nước đối với cán bộ, viên chức và người học của Trường; sắp xếp tổ chức và cán bộ của Trường, thực hiện những công việc thuộc thẩm quyền trong bổ nhiệm, miễn nhiệm, tuyển dụng và sử dụng cán bộ, viên chức theo quy định của pháp luật. Quyết định việc thành lập các hội đồng tư vấn, các phòng chức năng, các khoa, tổ bộ môn và các cơ sở phục vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học của Trường.
-     Quản lý người học; quyết định các công việc về tuyển sinh, thi, công nhận tốt nghiệp, xếp loại tốt nghiệp, cấp văn bằng, chứng chỉ tốt nghiệp và quản lý văn bằng, chứng chỉ theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
-     Tổ chức và chỉ đạo phong trào thi đua, lao động công ích, hoạt động văn hoá, thể dục thể thao, thực hiện quy chế dân chủ, chấp hành pháp luật, bảo vệ và gìn giữ môi trường vệ sinh, an ninh trật tự trong Trường.
-     Tổ chức công tác kiểm tra, thanh tra trong Trường; quyết định việc khen thưởng và xử lý kỷ luật đối với cán bộ, viên chức và người học của Trường theo quy định của Nhà nước.
-     Tổ chức hệ thống giám sát và đánh giá chất lượng giáo dục trong Nhà trường.
-     Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và hưởng các chế độ chính sách theo quy định của pháp luật.
Do đó, việc đánh giá hiệu trưởng dựa vào các dữ liệu thành tích sẽ giúp biết được hiệu suất làm việc của hiệu trưởng như thế nào. Từ năm 2006 – 2009, New Zealand đã tăng được 11% số trường thực hiện việc sử dụng dữ liệu thành tích để đánh giá hiệu trưởng.
2.6 Sử dụng máy vi tính trong việc giảng dạy môn toán ở bậc tiểu học
Từ năm 2003 – 2011, tỷ lệ học sinh tiểu học ở New Zealand sử dụng máy tính để luyện tập và thực hành trong các lớp học toán tăng 33%. Tỷ lệ tăng cao nhất so với các hệ thống giáo dục khác, trong khi tỷ lệ trung bình trên toàn thế giới do OECD cung cấp là 2%.
2.7 Sử dụng sách giáo khoa như một nguồn tài liệu khoa học phụ ở các trường tiểu học
Khi sách giáo khoa được sử dụng như tài liệu phụ, trái ngược với phương pháp học ở bậc tiểu học, học sinh có thể được tiếp xúc với các hoạt động dạy học thực tiễn, sáng tạo hơn. Từ năm 2003 đến 2011, New Zealand đã tăng 24% cho hoạt động sử dụng sách giáo khoa như một nguồn tài liệu phụ trong các lớp ở bậc tiểu học.
2.8  Sự có mặt của internet trong các lớp học toán ở bậc tiểu học
Trong giáo dục, việc khai thác thông tin và sử dụng Internet trong giảng dạy, học tập là một yêu cầu tất yếu nhằm phục vụ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên, giúp người học chủ động trong nghiên cứu, tìm tri thức, đồng thời là phương tiện có thể sử dụng để kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh. Do vậy mà từ năm 2003 đến 2011, số trường lớp học toán có sẵn internet ở New Zealand tăng 22%.
3. Đánh giá về giáo dục Đại học Việt Nam:
Để đánh giá một cách chuẩn xác và toàn diện về giáo dục Đại học Việt Nam, sẽ phải nghiên cứu rất nhiều tài liệu và mất rất nhiều thời gian. Nếu muốn tìm hiểu về vấn đề này, ta sẽ dễ tìm được tài liệu liên quan.
Xin phép được sử dụng thông tin từ trang Online của báo Tuổi trẻ, viết về Hội nghị Hiệu trưởng các trường ĐH, CĐ năm 2014  được tổ chức vào sáng ngày 15.8.2014 tại sáu điểm cầu: Hà Nội, Thái Nguyên, Nghệ An, Đà Nẵng, TP.HCM và Cần Thơ. Link bài viết:
“Tham gia hội nghị có đại diện lãnh đạo của tất cả các trường ĐH, CĐ trên cả nước. 
Với chủ đề triển khai kế hoạch hành động của ngành giáo dục về đổi mới căn bản toàn diện trong lĩnh vực giáo dục ĐH, hội nghị tập trung thảo luận các vấn đề:
- Đổi mới tuyển sinh như thi tốt nghiệp THPT, tuyển sinh ĐH,CĐ; 
- Xác định chỉ tiêu tuyển sinh; tổ chức và quản lý đào tạo (công bố chuẩn đầu ra, mở ngành trình độ ĐH, chuyên ngành thạc sĩ, tiến sĩ, tổ chức đào tạo theo hệ thống tín chỉ và đào tạo liên thông, đào tạo sau ĐH)…
Phát biểu mở đầu hội nghị tại điểm cầu TP.HCM, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã gợi ý một số vấn đề và đề nghị các đại biểu tập trung thảo luận. 
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu tại hội nghị Hiệu trưởng các trường ĐH,
Theo Phó Thủ tướng hiện người dân đang có nhiều thắc mắc, nhiều mong muốn.
Thứ nhất, hệ thống giáo dục ĐH VN thấy rất to lớn, không dễ hiểu. Phụ huynh thắc mắc con em họ học trường nào phù hợp nhất, trường nào ra có việc làm, có thu nhập và có cơ hội thăng tiến. Việc phân tầng, xếp hạng các trường ĐH được thực hiện ra sao.
Thứ hai, việc đầu tư vào giáo dục nói chung, trong đó có giáo dục ĐH, CĐ và dạy nghề luôn luôn rất lớn nhưng luôn thiếu trong khi nhu cầu học ĐH cao. Làm sao để các nhà đầu tư yên tâm đầu tư. Làm sao để các trường công sử dụng tiền ngân sách hiệu quả hơn. Tự chủ thế nào, khuyến khích tự chủ ra sao. Tại sao có trường xin tự chủ không được, cũng có trường được tự chủ nhưng cũng không tự chủ.
Thứ ba, việc đổi mới thi cử, đang được người dân rất quan tâm. Thi thì làm sao rõ ràng: thi gì, như thế nào; công bằng và bớt nhiêu khê nhất; nhà nước cần tổ chức thi thế nào để con cháu người ta có động lực học.”
Một số ý kiến khác tại hội nghị cũng xoay quanh một số vấn đề bất cập của giáo dục đại học hiện nay:
“Nhiều trường còn hạn chế cơ sở vật chất, giáo viên
Báo cáo về thực trạng giáo dục ĐH VN Thứ trưởng Bùi Văn Ga cho biết trong những năm qua, Bộ GD-ĐT đã ưu tiên đầu tư, tập trung nguồn lực cho công tác xây dựng và ban hành chính sách, chỉ đạo, quản lý và thực hiện vệc thanh tra, kiểm tra các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục ĐH.
Theo đánh giá chung, những năm qua, vị trí, vai trò của công tác đầu tư phát triển cơ sở vật chất đã được các trường nhận thức đúng đắn. Với sự đầu tư của nhà nước nhiều trường đã xây dựng được cơ sở vật chất khang trang và môi trường sư phạm tốt…
Tuy nhiên, bất cập về cơ sở vật chất vẫn tồn tại làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của đào tạo ở nhiều mặt.
Kết quả kiểm tra việc thực hiện cam kết thành lập trường ĐH, CĐ (16 trường công lập, 9 trường ngoài công lập) cho thấy một số trường chưa có đất thuộc sở hữu, chưa xây dựng được cơ sở đào tạo trên đất hiện có, hiện vẫn thuê mướn địa điểm để hoạt động giáo dục… 
Công tác quy hoạch xây dựng trường còn nhiều hạn chế, yếu kém; thiết bị đào tạo, phòng thí nghiệm các trường ĐH, CĐ còn yếu kém.
Về đội ngũ giảng viên cũng còn tồn tại nhiều hạn chế. Một số cơ sở đào tạo chưa thực sự quan tâm đến duy trì và phát triển đội ngũ giảng viên, không đảm bảo điều kiện về giảng viên cơ hữu theo quy định và đã bị dừng tuyển sinh…
Thứ trưởng Bùi Văn Ga cho rằng những tồn tại, hạn chế trên do nhiều nguyên nhân: việc phân tầng các cơ sở giáo dục ĐH chưa rõ ràng nên các trường không xác định được mục tiêu đào tạo cụ thể.
Nghiên cứu khoa học lạc hậu
Nghiên cứu khoa học trong các trường ĐH chưa được xem là hoạt động bắt buộc khiến cho kiến thức bị lạc hậu nhanh chóng và sinh viên không được nhúng trong môi trường sáng tạo để tự mình trang bị phương pháp nghiên cứu, kinh nghiệm tự học tập để phát triển liên tục trong suốt cuộc đời hoạt động nghề nghiệp của mình… Thiếu đội ngũ quản trị ĐH giàu kinh nghiệm trong các nhà trường.
Hội nghị sẽ tiếp tục diễn ra trong cả ngày hôm nay và sẽ dành phần lớn thời gian để các đại biểu thảo luận nhiều vấn đề mấu chốt nhất hiện nay trong giáo dục ĐH.”
Những nội dung mà bài viết đã nêu, hẳn không phải là diện mạo hoàn chỉnh của bức tranh giáo dục đại học Việt Nam. Nhưng đó chắc hẳn là những vấn đề nổi bật nhật, đang được quan tâm nhất, cần phải có giải pháp để chấn chỉnh.
4. Một số nhận xét về sự tương quan của hai nền giáo dục:
4.1 Về diện tích thì Việt Nam rộng gấp 1.23 lần nhưng về dân số thì đông gấp 22 lần so với New Zealand. Điều này cũng ảnh hưởng rất nhiều đến kinh tế, xã hội cũng như giáo dục của hai nước. Điều đó dẫn tới việc thực thi chính sách giáo dục, nguồn kinh phí chi cho giáo dục cũng rất khác nhau.
4.2 Về mặt bằng dân trí: Việt Nam có mặt bằng dân trí thấp hơn rất nhiều, do ảnh hưởng của điều kiện lịch sử, chiến tranh. Đó là sự tồn tại chế độ phong kiến đến thế kỷ 20. Từ năm 1958, Pháp vào xâm lược Việt Nam, tuy đã đặt nền móng cho nền giáo dục hiện đại nhưng cũng chỉ có một số ít người được tiếp cận với nền giáo dục này. Ở New Zealand, mặc dù trong lịch sử củng bị ảnh hưởng nhiều từ các nước lớn (Anh Quốc), bị ảnh hưởng từ chiến tranh thế giới lần 1, 2… nhưng tất cả những sự ảnh hưởng đó đều tốt cho giáo dục của họ, là đòn bẩy phát triển.
4.3 Vấn đề lịch sử, chính trị và kinh tế có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển và đặc trưng giáo dục của cả hai nước Việt Nam và New Zealand nói riêng và tất cả các quốc gia nói chung. Vấn đề lịch sử sẽ ảnh hưởng đến “điểm khởi đầu” hoặc các mốc quan trọng của nền giáo dục; thể chế chính trị cùng với chính sách sẽ là đường đi cho giáo dục, và tiềm lực về kinh tế tài chính là chất xúc tác để nền giáo dục nhanh về đích.
Như phần trên đã trình bày, nền giáo dục New Zealand hiện nay đạt được nhiều thành tựu đáng khâm phục. Đó chính là nhờ chính sách hợp lý, cải cách đúng lúc, có sự thống nhất và xuyên suốt trong suốt quá trình triển khai thực hiện. Và họ đã thành công trong quá trình cải cách của mình
Giáo dục Việt Nam ta, thẳn thắn nhìn nhận là vẫn còn chậm đổi mới, chậm cải cách, hoặc nếu có thì chưa thật sự đột phá. Một số quy định, chính sách giáo dục chưa phù hợp với thực tiễn hoặc chưa có tác dụng kích thích sự phát triển của giáo dục. Dù rằng, Việt Nam ta cũng đã xây dựng nhiều chiến lược, nghị quyết dành riêng cho giáo dục, mà mỗi chúng ta đều cảm nhận được, nếu đạt được mục tiêu đã đề ra thì thực sự là là một bước tiến quan trọng. Nhưng thực tế, quá trình triển khai thực hiện còn rất nhiều vướn mắc, có nhiều rào cản về tài chính, về khả năng quản lý và nhất là tư duy và sự sẵn sàng thay đổi.
5.1 Quá trình hình thành mối quan hệ:
Hợp tác giáo dục giữa New Zealand và Việt Nam đã có lịch sử lâu dài, kể từ khi những sinh viên Việt Nam tới New Zealand học tập dưới học bổng Colombo những năm 1950. Hợp tác giáo dục ngày càng tăng cường thông qua nhiều chương trình như Học bổng New Zealand – ASEAN hay Chương trình Bồi dưỡng Tiếng Anh cho Cán bộ Chính phủ (ELTO) nhằm nâng cao khả năng tiếng Anh của cán bộ chính phủ Việt Nam. New Zealand hiện cũng là lựa chọn phổ biến cho những du học sinh Việt Nam. Hơn nữa, một số trường Đại học New Zealand đã liên kết với các trường Đại học Việt Nam để cung cấp cấp chương trình đào tạo chất lượng cao cho các bạn sinh viên ngay tại Việt Nam.
5.2 Kết quả hợp tác:
Vào tháng 3 năm 2014, Bộ trưởng phụ trách phát triển kinh tế - kiêm bộ trưởng Bộ giáo dục đại học, kỹ năng và việc làm của New Zealand đã đến thăm và làm việc tại TP. Hồ Chí Minh. Chuyến thăm đã mở ra cơ hội tăng cường hợp tác thương mại, đầu tư và đặc biệt là giáo dục giữa hai nước.
Theo “thông cáo báo chí” về chuyến thăm này: “Trong năm 2012, đã có hơn 2,150 sinh viên Việt Nam sang học tập tại New Zealand, tăng hơn 90% so với năm 2008. Việt Nam hiện là thị trường nguồn lớn thứ 9 về lượng sinh viên quốc tế học tập tại New Zealand, và đạt mức tăng nhanh nhất về số lượng sinh viên sang New Zealand học tập trong khu vực ASEAN”.
5.3 Nội dung hợp tác:
Nói về hình thức liên kết đào tạo, có nhiều hình thức như: Chương trình đôi, chương trình liên kết, chuyển đổi tín chỉ, đại lý nước ngoài, đào tạo từ xa… (Theo tài liệu “Giáo dục hội nhập quốc tế, 2013, PGS.TS Phạm Lan Hương).
a)     Chương trình đôi: Là hình thức giống du học nước ngoài nhưng tiết kiệm được chi phí. Hiện nay có một số trường danh tiếng đã đồng ý liên kết với các trường tại Việt Nam.
-         Trường ĐH Quốc tế - ĐHQG TP.HCM liên kết với trường Đại học Công nghệ Auckland ngành Quản trị kinh doanh (Các chuyên ngành hẹp: Accounting, Advertising,Economics, Business Information Systems, Commercial Law, Design, Finance, Human Resource Management and Employment Relations, International Business, Management, Marketing, Retailing, Sales, Tourism)
-         Trường ĐH Quốc tế - ĐHQG TP.HCM liên kết với trường Đại học Công nghệ Auckland các ngành Kỹ thuật hệ thống máy tính, Kỹ thuật điện tử viễn thông, Kỹ thuật phần mềm
Website của ĐH Quốc tế: 
-         Đại học Kinh tế TP. HCM liên kết với Trường VICTORIA OF WELLINGTON ngành Quản trị kinh doanh.
-         Học viện ngoại giao Việt Nam liên kết với Trường VICTORIA OF WELLINGTON ngành Quan hệ quốc tế.
b)     Đại lý nước ngoài:
Trường Đại học VICTORIA OF WELLINGTON có đặt một văn phòng tại một cơ sở của Trường Đại học kinh tế TP.HCM để triển khai các hoạt động hợp tác với trường ĐH Kinh tế nói riêng và các trường ĐH – CĐ khác nói chung, cũng như triển khai các hoạt động tư vấn, tuyển sinh…
c)     Các chương trình, dự án hỗ trợ từ chính phủ và các trường tại New Zealand:
o   Từ năm 1994, 153 cá nhân tại Việt Nam đã được trao học bổng của chính phủ New Zealand để theo học các khóa sau đại học tại New Zealand.
o   Học bổng New Zealand- ASEAN là chương trình học bổng vùng dành cho bậc cao học trong đó tập trung vào các khóa học thuộc lĩnh vực phù hợp với New Zealand và ASEAN. Việt nam được phân bổ 30 xuất học bổng một năm.
o   Từ năm 1977, 421 cán bộ Việt Nam đã tham gia chương trình ELTO tại New Zealand. Chương trình Bồi dưỡng Tiếng Anh cho Cán bộ Chính phủ (ELTO) nhằm nâng cao khả năng tiếng Anh của cán bộ chính phủ Việt Nam đã trở thành hoạt động thường niên..
o   Trong năm 2012, New Zealand đã bắt đầu triển khai một dự án có tổng kinh phí NZ$7.5 triệu trong vòng 5 năm về phát triển trẻ thơ tại tỉnh Gia Lai. Dự án dựa vào kinh nghiệm của NZ về giáo dục mầm non và hỗ trợ cách tiếp cận giáo dục lấy trẻ làm trung tâm và phù hợp về văn hóa, trong đó bao gồm việc xây dựng trường thân thiện với trẻ và thúc đẩy giáo dục song ngữ và tiếng mẹ đẻ.
o   Trong năm 2012, New Zealand đã tài trợ NZ$200,000 để góp một phần vào việc xây dựng và triển khai chương trình liên kết Thạc sĩ về Quan hệ Quốc tế giữa trường đại học Victoria ở Wellington và Học Viện Ngoại giao của Việt Nam.
6. Một số suy nghĩ và vấn đề đặt ra cho giáo dục Việt Nam:
a) Mỗi quốc gia sẽ có một bản sắc, điều kiện và quan điểm khác nhau về giáo dục và định hướng phát triển trong giáo dục. Qua những thông tin về quá trình phát triển, thành tựu và những đổi mới vượt bậc của nền giáo dục New Zealand, cũng như qua một số nhận định về tình hình của giáo dục (đại học) Việt Nam, thấy rằng Việt Nam đang đứng trước một thách thức lớn về khoảng cách của sự phát triển trong giáo dục. Trước mắt là sự hội nhập giáo dục trong khối Asean vào năm 2015 và sẽ tiếp tục hội nhập trong thời gian tới.
b) Vấn đề hội nhập là cấp thiết. Việt Nam đã có những bước đi trong thực tế, từ việc xây dựng cơ sở pháp lý, chiến lược, kế hoạch và những hoạt động liên kết trong giáo dục.
c) Các hình thức, hoạt động liên kết đào tạo là một trong những biện pháp giúp HSSV tiếp cận với các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới nhằm trang bị kiến thức và kỹ năng theo hướng hội nhập và toàn cầu hóa. Giảng viên của các trường ĐH-CĐ nếu được tham gia học tập, giảng dạy, trao đổi – nghiên cứu sẽ nâng cao được năng lực ngoại ngữ, chuyên môn và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, chính phủ và ngành cũng cần phải có biện pháp quản lý nhằm chống hiện tượng liên kết tràn lan, không đảm bảo chất lượng. Cần phải nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý cho các hoạt động liên quan.
d) Giáo dục New Zealand là nền giáo dục hiện đại, tiên tiến. Cần có nhiều giải pháp để tăng cường sự hợp tác và tranh thủ sự hỗ trợ từ các chương trình, dự án. Đẩy mạnh các hoạt động và hình thức liên kết giữa các cơ sở giáo dục tại Việt Nam và các đơn vị giáo dục của New Zealand.
e) Trong quá trình hội nhập và phát triển của giáo dục Việt Nam, điều cần thiết là nghiên cứu, học hỏi và tham khảo sự hiện đại, tiên tiến của các nền giáo dục (ví dụ giáo dục New Zealand) nhưng cần chú ý dung hòa nhiều yếu tố, các giải pháp đề ra cần phải đồng bộ và khả thi với thực  tế tại Việt Nam, tại các trường và phụ thuộc năng lực của đối tượng.
- Vấn đề ngôn ngữ: Ngoài những chương trình đề án cấp quốc gia, tự các trường ĐH-CĐ cũng phải xây dựng chiến lược, kế hoạch cho riêng mình nhằm nâng cao năng lực ngoại ngữ cho HSSV. Chính bản thân HSSV cũng cần phải có ý thức tự rèn luyện và hòan thiện.
- Trong xây dựng chương trình đào tạo, chú ý tính liên thông, tích hợp và chuẩn quốc tế
- Điều chỉnh và đồng bộ về cách thức đánh giá theo hướng tiên tiến
- Về chất lượng đội ngũ, tuyển chọn và đãi ngộ…
Tóm lại, thị trường giáo dục Việt Nam được coi là rất tiềm năng. Con đường hội nhập quốc tế của giáo dục Việt Nam đang rộng mở với nhiều cơ hội và không ít thách thức. Sự nghiên cứu, học hỏi, tham khảo các nền giáo dục tiên tiến là cần thiết, nhưng cần chú ý đến sự phù hợp với hành lang pháp lý, tình hình cụ thể tại Việt Nam. New Zealand là một trong số các nền giáo dục hiện đại mà Việt Nam cần ưu tiên hợp tác. Liên kết đào tạo là một trong những giải pháp hiệu quả và nhanh chóng giúp giáo dục Việt Nam hội nhập và phát triển.


IV. Tài liệu tham khảo
1.  Tổng quan về NewZealand  ( Hoàng Thanh Thảo phụ trách)
   

5. Thành công của nền giáo dục NewZealand( Trần Thị Thanh Thùy phụ trách)


6. So sánh với nền giáo dục Việt Nam và bài học kinh nghiệm
Tìm kiếm, tổng hợp thông tin liên quan đến sự đổi mới và tính ưu việt của giáo dục New Zealand. Tìm kiếm và thống kê các Trường ĐH – CĐ tại Việt Nam có liên kết, hợp tác với các trường của New Zealand. (Phan Nguyên Châu phụ trách)
Tìm kiếm, thống kê các chương trình liên kết, dự án hỗ trợ của chính phủ và giáo dục New Zealand cho giáo dục Việt Nam. Lập bảng so sánh về số liệu điều kiện kinh tế, xã hội và quá trình phát triển giáo dục hai nước.( Nguyễn Phan Hải Âu phụ trách)
Nhận định một số đặc điểm tương đồng về sự phát triển của nền giáo dục hai nước. Nghiên cứu quá trình và nhiệm vụ hội nhập của giáo dục Việt Nam, tìm kiếm tài liệu đánh giá về giáo dục ĐH của Việt Nam. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm, vận dụng vào quá trình phát triển và hội nhập của giáo dục Việt Nam.( Nguyễn Thị Thanh Thúy phụ trách)